Đạo Cao Đài

 

Nguyên tác của giáo sư Gustave Meillon 

 

Bởi lăng kính của người Pháp, loan tải trên nội san dành cho
các hội viên được trao tặng Bảo Quốc Huân Chương của Pháp, tờ Le Ruban
Rouge, số 6 tháng 9 năm 1960, xuất bản tại Paris, với lời giới thiệu
của vị tướng Paul Bondis, có tính chất thời sự lúc đó, không nhất
thiết phản ảnh giáo lư và hoạt động của Hội Thánh Cao Đài. Tuy nhiên,
với mục đích t́m hiểu quan điểm của người Tây Phương đối với Hội Thánh,
chúng tôi xin dịch nguyên văn bài viết của G.s. Meillon.
       [  Do ban Đạo Sử Cao Đài Âu Châu dịch thuật ]
               Lời  Dẫn Nhập
         Nhiều tôn giáo và đảng phái chính trị hiện hữu tại
miền Nam Việt Nam là một đặc điểm của miền này, nhưng lại là một dữ
kiện khá b́nh thường trong lịch sử dân tộc Viễn Đông.
         Dẫn chứng đặc điểm này, tưởng cũng nên nhắc đến các Hội kín
hay các hội có tính cách thần bí, như Hội Khăn Đống Vàng (Turbans
Jaunes), Bạch Liên Hoa (Lotus Blancs) đă đóng vai tṛ ít nhiều quan
trọng trong định mệnh của các quốc gia Đông Nam Á.
         Quần chúng sống v́ tín ngưỡng và tinh thần đơn giản, ham muốn
t́m hiểu những thế lực siêu nhiên là một lập luận cần thiết để các hiệp
hội phát triển và, nếu có một sự thúc đẩy chính trị nào đó, các hiệp
hội này có thể động viên cả một đạo binh quyết chiến.
         Những biến chuyển tiếp theo các biến cố năm 1945-46, việc quân
đội Nhật chiếm đóng trước đó c̣n tác động mạnh đến quần chúng và đồng
thời sự bất lực của Chính Quyền Trung Ương, trong những điều kiện đó,
miền Nam Việt Nam có được một địa bàn thuận lợi cho sự phát triển
những đảng phái tôn giáo chính trị đương thời và giúp họ gia tăng hoạt
động. Thực ra, sau một thời kỳ xáo trộn các vị lănh đạo tôn giáo miền
Nam Việt Nam hiểu rằng chiến thắng toàn vẹn của Lực Lượng Cộng Sản sẽ
thảm khốc cho những mục tiêu họ theo đuổi và v́ lư do đó họ hợp tác
cùng quân đội Pháp, đă đóng góp một phần nào đó rất tích cực và đồng
thuận, đôi khi c̣n phải xét lại trong những chiến dịch b́nh định.
         Bỏ qua một bên giáo phái Ḥa Hảo, những Đơn Vị Tiến Bước Bảo Vệ
Công Giáo (Les Unités de Marche des Chrétientés), quân đội B́nh Xuyên,
một trong những chuyên gia về vấn đề Việt Nam, Ô. Meillon đă có nhả ư
công hiến cho độc giả "Ruban Rouge" bài khảo cứu sau đây về đạo Cao
Đài.  
Paul Bondis .
                     Đ[1]O  CAO  ĐÀI
         Gần đây, giáo phái Cao Đài đă hai lần là đề tài tin tức
thời sự Việt Nam. Ta lại cần nhấn mạnh về sự kiện này hơn v́ từ năm
1956, năm quân đội Cao Đài sát nhập vào Quân Đội Quốc Gia (ngày
24-02-1956) là năm kư kết Thỏa Hiệp Tây Ninh (ngày 28-20-1956), người
ta không c̣n nhắc tới Cao Đài nữa, ngoại trừ ngày Đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc qui tiên tại nam Vang ngày 17-05-1959.
         Đầu tháng 7-1959, vài nhật báo Sài G̣n loan tin về vụ biển thủ
2 triệu đồng nhân dịp xây cất một trại gia binh cho quân đội Cao Đài
tại Xuân Hiệp, Thủ Đức năm 1955. Trong một cuộc họp báo ngày 07-07, Bộ
Quốc Pḥng tức khắc cải chính tin này. Bộ cho hay vị tướng Cao Đài Văn
Thành Cao năm 1955 đă tự ư giao cho một sĩ quan trọng trách xây cất
trại; thế nhưng đơn vị biệt phái này đă phải chuyển quân đi nơi khác
trước khi công tŕnh hoàn tất và v́ thế công việc xây cất đành bỏ dở.
Bộ c̣n cho biết tướng Văn Thành Cao có xin Bộ một số tiền cao hơn 6
triệu đồng để trả nợ, song đơn xin ngân khoản này đang được cứu xét
và Bộ chưa có quyết định ǵ cả.
         Ngày 22-11, Hội Phục Hưng Việt Nam sáng lập năm 1949, mở Đại
Hội nhằm quy tụ mọi thành phần nhân dân Việt Nam. Hội được giới thiệu
như một phong trào độc lập với Cao Đài, nhưng thực tế lại thần phục
giáo lư Cao Đài. Đây chính là sự hồi sinh Việt Nam Quang Phục Hội
sáng lập năm 1936 và do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để bảo trợ, Kỳ ngoại hầu
hiện đang tỵ nạn tại Nhật Bản và tích cực cổ vơ cho phong trào quốc
gia Việt nam. Tờ Viễn Đông Nhật Báo (Le Journal d'Extrême Orient) số
ra ngày 20-11, nhân dịp Đại Hội khai mạc, khẳng định đây là một tổ
chức chính trị gồm "đa số người Cao Đài" và có "khoảng 2 triệu hội
viên" (hầu hết là người Cao Đài), Đức Hộ Pháp và Hội Thánh Cao Đài ngày
02-12 đă viết thơ cho nhật báo "v́ quyền lợi tối thượng của đạo Cao
Đài và v́ tôn trọng sự thật" yêu cầu nhật báo đính chính lại như sau :
         1- Hội nói trên gồm một số hội viên Cao Đài duy nhất thuộc
Ṭa Thánh Tây Ninh.
         2- Đạo Cao Đài khoảng 2 triệu tín đồ, đa số được phân chia
ra các Hội Thánh khác biệt với Ṭa Thánh Tây Ninh và không có liên
quan ǵ với các đảng phái khác.
         3- Cao Đài là một tôn giáo và không thể đồng hóa với một tổ
chức chính trị, mà cũng không có đại diện chính trị nào cả.
         Sự thật, tại Pháp, người ta cho rằng phong trào này không c̣n
có lư do tồn tại nữa và sau khi đă giữ một vai tṛ chính trị-quân sự
trong suốt mười năm qua, phong trào đă biến mất khoảng năm 1956.
Những sự kiện nêu trên, với những lời minh xác dẫn chứng, nêu rơ những
sự sai lầm khái niệm này.
                    QUÁ  TR̀NH  LCH  SỬ
         Ngày thành lập chính thức đạo Cao Đài là ngày 07-10-1926,
thời kỳ phát sanh ra đạo thực ra kéo dài từ đầu thế kỷ 20.
         Những biến cố làm rung chuyển Viễn Đông (Chiến tranh Nga Nhật,
Cách Mạng Trung Hoa, sự bành trướng của Nhật Bản) vang dội đến Việt
Nam, một thế hệ trí thức mới thấm nhuần văn hóa Pháp xuất hiện. Nhóm
này không dứt khoát hẳn với quá khứ, mà c̣n nhận thức rơ hơn về những
ư tưởng tiến bộ và tự do, giá trị cá nhân. Tại Miền nam Việt Nam ,
lúc đó c̣n gọi là Nam Kỳ, diễn tiến lại càng nhanh hơn, thể chế
chính trị đưa tới một sự thay đổi xă hội truyền thống sâu đậm hơn và
t́nh trạng kinh tế phồn thịnh thuận lợi cho việc xuất hiện một giai
cấp mới, giai cấp điền chủ giàu có với ảnh hưởng ngày càng gia tăng.
         Thế nhưng quy chế thuộc địa cùng một lúc lại kềm hăm nguyện
vọng quốc gia đang thành h́nh và khi nhóm nào đó hiếm hoi được chính
quyền thuộc địa thỏa măn th́ lại càng soi sáng hơn những thỉnh nguyện
của nhiều nhóm khác.
         Trước viễn tượng bế tắc này, thanh niên Việt nam thấm nhuần tư
tưởng tây phương đi t́m con đường mới khả dĩ đưa họ tới một thế quân
b́nh và bảo đảm cho họ một cuộc sống thích hợp với nguyện vọng của họ.
Noi theo gương các cựu nho sĩ, một số người kêu gọi thần linh; họ dựa
vào thông thần lực để t́m hiểu qua thông điệp hay câu sấm thế giới
bên kia một giải pháp cho những vấn đề cần giải quyết và một phương
thuốc cho những thắc mắc làm họ ray rứt.
         Tại Việt Nam, đạo Cao Đài xuất hiện là do sự gặp gỡ giữa Đông
Phương và Tây Phương, tạo ra thế bất quân b́nh, và do công cuộc t́m
kiếm một trật tự mới để cho mỗi người t́m thấy một đời sống tốt đẹp và
những mối tương quan phóng khoáng hơn.
         Ngài Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu, người Cao Đài đầu tiên, sinh tại
B́nh Tây, gần Chợ Lớn, ngày 28-02-1878. Ngài được học bổng theo học
trường trung học Mỹ Tho, đậu văn bằng thành chung và trúng tuyển năm
1899 kỳ thi tuyển chọn thư kư cho Toàn Quyền Pháp.
         Khiêm tốn, không hề có cao vọng, Ngài Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu
một mực liêm khiết đảm nhiệm nhiều chức vụ hành chánh. Năm 1902, đang
tại chức tại thủ Dầu Một, các bạn mời Ngài cầu cơ, cơ hiện lên
và khuyên Ngài cứ cố gắng theo đuổi con đường Ngài đang đi. Từ đó Ngài
chú tâm thực hành đạo Lăo đă chiếm ngự mọi thú tiêu khiển của Ngài
thời thơ ấu. Ngài t́m hiểu nghiên cứu hơn các sách vở bàn về đạo Lăo
và tâm linh. Chẳng bao lâu Ngài t́m ra phương cách truyền thông với
thế giới bên kia.
         Năm 1920, người ta thấy Ngài hành xử chức vụ đại biểu hành
chánh tại đảo Phú Quốc. Nơi đây Ngài được tự do hơn và cho phép Ngài
tập hợp một nhóm Đồng tử trẻ để cùng nhau thường xuyên tham vấn Vong
linh. Có một Đấng thị hiện giao cho Ngài sứ mạng rao truyền trên thế
 gian này một tôn giáo đại đồng, biểu tượng bởi Thiên Nhăn với con
 ngươi mở rộng, đạo CAO ĐÀI.
         Cũng trong thời gian đó, tại Sài G̣n, nhiều nhóm Đồng tử do
nhóm trẻ thư kư Toàn Quyền tổ chức cũng sinh hoạt. Họ xử dụng "chiếc
bàn nhịp" pḥ cơ, phương thức chậm mà lại bất tiện. Nhưng không có
một liên hệ nào giữa nhóm này với nhóm nọ. Về phần Ngài Đốc Phủ Ngô
Văn Chiêu, Ngài được thuyên chuyển về Sài G̣n năm 1924 và cùng với
vài đệ tử, đêm đến, Ngài tiếp tục cầu cơ và nhận thông điệp.
         Việc vào đạo lẫy lừng của viên Cố Vấn Thuộc Địa Lê Văn Trung
xảy ra năm sau. Là một nhân vật nổi tiếng, cựu công chức trở thành
thầu khoán công chánh, bị khánh sản sau khi gom góp được một tài sản
kếch sù, rất ham thích thú vui trên thế gian này, ông Lê Văn Trung
nhận lời mời của một người bà con sùng tín đạo Lăo tham dự một buổi
cầu cơ tại ngoại ô Sài G̣n. CHÍ TÔN thị hiện, khuyên ông thay đổi đời
sống và thông báo cho ông biết ông sẽ có một tương lai rạng rỡ.
Rất xúc động, chẳng bao lâu ông trở nên một người tu khổ hạnh.
Tin về sự thay đổi hoàn toàn cách sống này được bàn luận nhiều cách,
 gây ra một sự gia tăng cầu cơ và lôi kéo theo một số đồng tử.
         Trong các nhóm đó, chỉ có nhóm của ông Phạm Công Tắc, nhân
viên quan thuế, là nổi tiếng nhất. Một Đấng giáng Đàn, lời dạy bảo sâu
sắc của Đấng làm cử tọa ngạc nhiên, Đấng giữ kín danh tính Đấng và chỉ
xưng tên ḿnh với ba chữ cái đầu A Ă Â vần quốc ngữ. Trong đêm ngày
24-12-1925, CHÍ TÔN cho biết rơ danh tính ḿnh :"Đạo hữu hay ăn mừng
ngày lễ. Đó là ngày ta giáng thế trời Âu để truyền đạo ta.." Người ta
không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, Cao Đài là Vị Tối Cao, là Đức Cao Đài
Thượng Đế. Ta dễ dàng mường tượng tầm quan trọng của sự khám phá này.
         Các đồng tử sau đó nhận được lệnh liên lạc với các nhóm để
hợp nhất lại. Họ c̣n nhận được sứ mạng loại bỏ cái bàn nhịp để thay
thế bằng cái giỏ mỏ và phải đến gặp Ngài Ngô Văn Chiêu để Ngài truyền
đạo. Ngày 18-02-1926, Phạm Công Tắc và Lê Văn Trung đến gặp Ngài Ngô Văn
Chiêu. Sự hợp nhất được thực hiện trong một thời gian. Nhưng Ngài Ngô
Văn Chiêu, vị "huynh trưởng" h́nh như sợ hăi cao trào quần chúng khả dĩ
xảy ra. Vai tṛ của Ngài lu mờ và Ngài rút về Cần Thơ cùng vài đệ tử,
 Ngài là người đầu tiên thành lập Chi Phái Cao Đài Chiếu Minh.
 Ngài qui tiên ngày 18-04-1932.
         Ngay từ tháng 4-1926, Lê Văn Trung lănh đạo phong trào. Nhờ
tài tổ chức của ông, sự tuyên truyền khôn ngoan, những bí hiểm về tôn
giáo mới ra đời đă thu hút được số đông người vào đạo và gồm đủ mọi
thành phần giai cấp muốn t́m hiểu cái mới lạ. Ngày 07-10-1926, vị
Toàn Quyền Nam Kỳ nhận được tờ "Khai Đạo" chính thức thành lập đạo
Cao Đài. Thận trọng viên Toàn Quyền ghi nhận sự kiện mà không chính
thức thừa nhận đạo Cao Đài.
        Việc viên Toàn Quyền dễ dăi ghi nhận sự kiện đủ để giúp cho
những người truyền đạo phổ biến đạo ḿnh. Chỉ vài tuần sau, đă có
20000 đệ tử vào đạo. Thành quả này làm Chính Quyền đương thời lo lắng
nh́n thấy phong trào lan rộng qua Cam Bốt. Tại Tây Ninh, khoảng một
trăm cây số Tây bắc Sài G̣n, cách Cam Bốt không xa lắm, người Cao Đài
bắt đầu xây Ṭa Thánh nhờ số nhân công, công quả và quỹ phước sương
quan trọng . Nhân ngày Đại lễ "Khai Đạo" từ 18 đến 26 tháng 11 năm
1926, Tân Kinh, Đạo Luật, Pháp Chánh Tuyền và cơ cấu tổ chức hành
 chánh được thành lập, ông Lê Văn Trung được thiên phong làm Đức
quyền Giáo-Tông. Đạo Cao Đài từ đó củng cố uy thế và phổ độ.
     Hàng trăm ngàn người Cam Bốt hành hương do các nhà sư hướng dẫn,
từng đoàn một, mỗi ngày đổ về Tây Ninh làm cho Chính Quyền lo âu. Bộ
Trưởng bộ Lễ Cam Bốt nhiều lần buộc phải bảo vệ nền Phật Giáo truyền
thống, rồi lại chính thức lên án đạo Cao Đài vào cuối năm 1927. Trước
những biện pháp trừng phạt cứng rắn ban hành, đoàn người di chuyển về
Tây Ninh hầu như ngưng hẳn. Thế nhưng việc truyền đạo Cao Đài lại
được phổ biến tại chỗ, kín đáo và thận trọng, dưới sự bảo trợ của một
đấng hăng say hơn hết trong các cuộc biểu t́nh : văn hào Victor Hugo.
        Trong những năm kế tiếp, nhiều cuộc đụng độ trầm trọng xảy ra
v́ Chính Quyền Bảo Hộ đề ra biện pháp cứng rắn. Hậu quả là có những
chiến dịch báo chí nảy lửa và vài vụ kiện tụng nổi tiếng đă ảnh hưởng
tới chính quyền Pháp. Và khi Mặt Trận Nhân dân lên nắm chính quyền tại
Pháp, Mặt Trận thừa nhận cho người Cao Đài được quyền tự do tín ngưỡng
năm 1934. Tháng năm 1937, Phối-Sư: Trần Quang Vinh, "Trưởng phái
bộ Truyền Giáo Ngoại Quốc (Mission Etrangère)" long trọng khánh thành
Hội Thánh Ngoại Giáo tại Nam Vang. Thế nhưng, những trở ngại trong
những năm đầu,(Hội Thánh Cao Đài Thế Giới).
và sự thành lập chi phái của các chức sắc Thiên Phong làm cho đa
 số dân Cam Bốt không đến Tây Ninh nữa.
        Trở lại Tây Ninh. Năm 1930, Ṭa Thánh cho biết có được 500
000 tín đồ, một phần tám dân số dân miền Nam Việt Nam. Kết quả có lẽ
c̣n cao hơn nếu không xảy ra những sự xung đột trầm trọng, không phải
v́ vấn đề giáo lư, mà v́ vấn đề nhập thế, đưa tới việc các chức
sắc từ chức bỏ đi. Thành lập nhiều chi phái Cao Đài phổ độ khác nhau
rải rác nhiều nơi trong nước làm giảm uy tín Ṭa Thánh Tây Ninh. Tuy
nhiên, những sự tố cáo bất nhă được tung ra, va chạm ngay đến bản thân
Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, làm cho Tả Đạo lớn dần và lại đưa tới
 những sự từ chức khác. Cùng lúc đó, một cuộc khủng hoảng kinh tế
trên khắp Đông Dương cũng ảnh hưởng đến Ṭa Thánh, thay vào cảnh trù
 phú trước đây, nạn đói kém hoành hành khắp nơi.
 Giáo Tông Lê Văn Trung, đau ốm, kiệt sức v́ phải đương đầu với những
cuộc tranh chấp,
Giáo Tông Thượng Trung Nhựt qui tiên ngày 08 tháng 11 năm 1934.
        Không c̣n ai để thay thế chức vụ của Ngài. Qua năm sau, trong
khi những cuộc tranh chấp c̣n đang nóng hổi, Hội Thánh nhóm họp, trao
sứ mệnh Chưởng quản nhị hữu h́nh Đài cho Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc.
 Trong những năm khủng hoảng, Ngài luôn luôn sát cánh với Giáo Tông
Thượng Trung Nhựt và càng ngày Ngài càng giữ một vai tṛ quan trọng.
 Từ ngày 12 tháng 11 năm 1935 tới ngày 17 tháng 5 năm 1959,
 ngày Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc qui tiên,
 đối với đa số tín đồ Cao Đài, Ngài là vị Hộ Pháp tối cao đạo Cao Đài.
        Nổ lực truyền giáo đạo Cao Đài được tiếp tục thuận lợi hơn nhờ
đường hướng mới của chính sách thuộc địa, tự do thờ cúng trên toàn cơi
Đông Dương và tỉnh Tây Ninh dần dà trở lại yên tĩnh. Vả lại cũng phải
kể đến sự khôn ngoan và khéo léo của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
        Thế nhưng sinh hoạt của các chi phái vẫn tồn tại. Các chi phái
 này muốn giữ tư cách độc lập của ḿnh, củng cố ban chấp hành, làm
ta có cảm tưởng không có những cuộc tranh chấp giữa nhóm này với nhóm
nọ. Một "Hội Nghị chi phái Cao Đài Toàn Quốc" nhóm họp năm 1936, bầu
ông Nguyễn Phan Long, cố vấn thuộc địa và quảng cáo gia vào chức vị
Chủ Tịch, hy vọng nhờ có tiếng tăm, ông sẽ kết hợp được những người
c̣n lừng chừng. Tuy vậy, sau ba năm, kết quả gặt hái được không có bao
nhiêu. Ṭa Thánh Tây Ninh đứng ngoài cuộc tranh chấp này và duy tŕ
được một uy tín thực sự đối với đa số đạo hữu Cao Đài.
        Trước ngày Thế Chiến thứ hai bùng nổ, các cuộc tranh chấp
nguôi bớt v́ người ta c̣n phải chú tâm tới nhiều vấn đề khác, nhất là
t́m hiểu thái độ của một số nhân vật Cao Đài tự coi là kháng chiến
quốc gia. Dưới chiêu bài quốc gia, có những buổi pḥ cơ, chấp bút đưa
ra những suy đoán về cuộc chiến và những hậu quả của nó. Ṭa Thánh Tây
Ninh không nh́n nhận câu sấm này là đúng, nhưng nhiều vị chức sắc tỏ ra
có cảm t́nh với nhóm quốc gia và mong mỏi nước Nhật Bản sẽ đóng một vai
tṛ tất định giúp nhóm quốc gia thực hiện hoài băo của họ.
        Tại Nhật Bản, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, con cháu thuộc hệ chính
Gia Long, người sáng lập ra triều Nguyễn (1802), lánh nạn nơi đây từ
năm 1906, tranh đấu chống chính quyền thuộc địa. Năm 1936, Kỳ Ngoại
Hầu sáng lập Việt Nam Quang Phục Hội và uy tín của ngài ngày càng lớn
mạnh nơi các giới chức Cao Đài. Đồng Minh thảm bại năm 1940 báo hiệu
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sắp trở về Việt Nam. Tiếng đồn loan truyền đi
làm nhiều người Cao Đài hưởng ứng, hậu thuẫn Kỳ Ngoại Hầu. Chính Quyền
địa phương có nhiều lư do để canh chừng mật thiết hơn. Toàn Quyền
Decoux nghĩ cần đề ra biện pháp mạnh.
        Năm 1940, nhiều thánh thất Cao Đài bị đóng cửa. Phong trào
giành độc lập tiếp tục đấu tranh. Năm 1941, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
và năm vị chức sắc Cao Đài bị bắt đày đi Madagascar. Việc chính
quyền thuộc địa càng ngày càng đàn áp mạnh làm cho chức sắc Cao Đài
phải đào ngũ, chạy trốn ra ngoại quốc. V́ t́nh h́nh đưa đẩy, phong
trào Cao Đài thay đổi h́nh thái và trở nên một phong trào chính trị
do các Tín Đồ Cao Đài thành lập.
        Quân đội Nhật đồn trú tại miền Nam Đông Dương thừa dịp khai
thác nỗi bất b́nh do nhà cầm quyền thuộc địa gây ra. Mới đầu họ bảo vệ
Thánh Thất Nam Vang, nơi đây các đạo hữu nhận lệnh và chỉ thị của Hội
Thánh. Sau đó, v́ chính quyền thuộc địa phản đối, ngay sau khi cho phép
Thánh Thất Nam Vang hành lễ tự do, họ lại ra lệnh đóng cửa liền và
Tháng 10 năm 1940 thành lập tại Sài G̣n một sự hợp tác Cao Đài-Nhật
Bản cũng chỉ v́ quyền lợi chung.
        Phối Sư Trần Quang Vinh, cựu Trưởng phái đoàn Cam Bốt,
qua huyền diệu cơ bút nhận lệnh tạm thời lănh đạo Hội Thánh. Cho tới
ngày Nhật Bản thua trận, Ngài là linh hồn của sự hợp tác Cao Đài-Nhật
Bản dù rằng Ngài không ưa thích ǵ Nhật và đôi bên thường canh chừng
nhau trong những buổi thương thảo.
    Đây cũng là thời kỳ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để liên lạc với quân đội
Cao Đài, kêu gọi họ gia nhập Việt Nam Quang Phục Hội, hàng ngàn người
tự nguyện gia nhập và được các huấn luyện viên Nhật Bản huấn luyện về
t́nh báo và chiến đấu. Một lực lượng quân sự Cao Đài dần dà h́nh thành
và được ngụy trang dưới nhăn hiệu một công ty xây cất thuyền bè tuyển
nhiều nhân công. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày đảo chính chống lại
chính quyền Pháp, các chiến sĩ Cao Đài công khai ra mặt, chứng tỏ họ
là những phần tử đáng kể trợ tá quân đội Nhật.
        Qua ngày sau, dân chúng được tự do cúng bái và các tín đồ t́m
đến thánh thất. Quân đội Nhật thừa nhận sự hiện hữu của một lực lượng
quân sự Cao Đài với Bộ Tham Mưu đặc biệt. Thế nhưng bom nổ ở Hiroshima
và Nagasaki chấm dứt sự bành trướng lực lượng Cao Đài. Thảm bại, Nhật
Bản rút khỏi Việt Nam. Mặt trận Việt Minh, dưới sự lănh đạo của cộng
sản, lên nắm chính quyền. Người Cao Đài thận trọng liên hiệp với Việt
Minh mà vẫn duy tŕ tính cách tự trị của ḿnh.
        Vai tṛ của Phối Sư Trần Quang Vinh lu mờ. Ngài bị Việt
Minh bắt, vượt ngục, nhưng lại bị quân đội Pháp đang mở chiến dịch càn
quét quân đội Cao Đài tại Sài G̣n Ngài bắt một lần nữa.
     V́ quyền lợi của Giáo Hội, Ngài cho rằng nên thương thảo với Pháp.
 Pháp chính thức thừa nhận đạo Cao Đài, cho phép các chức sắc Cao Đài
từ Madagascar hồi hương, ngược lại Ngài hứa quân
đội Cao Đài sẽ hợp tác với quân đội Pháp b́nh định đất nước và thiết
lập một chính thể mới chiếu theo những lời hứa được tuyên bố tại
Brazzaville. Thỏa hiệp này được kư ngày 9 tháng 6 năm 1946.
        Ngày 21 tháng 8, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc trở về Việt Nam.
Ngày 20, Ngài trở lại Ṭa Thánh Tây Ninh. Sau đó, Ngài tổ chức lại
ngay phong trào, việc làm tương đối dễ dàng về mặt tôn giáo, nhưng lại
khó khăn hơn về mặt chính trị và quân sự. Nhờ có uy tín, Ngài đă khắc
phục được mọi tranh chấp trong giới chức Sắc Cao Đài.
        Việc quân đội Cao Đài hậu thuẫn cho quân đội Pháp chống lại
Việt Minh đưa ra nhiều lời bàn luận. Người ta đă phê phán Ngài nhiều
cách. Có những nhóm chiêu hồi xen lẫn với những kẻ bỏ ra đi trong sự
hợp tác này, ít nhiều chặt chẽ, ít nhiều thân hữu tùy theo thời điểm.
Có một lúc, các cấp chỉ huy Pháp hầu hết ước mong có được dưới quyền
họ các chiến sĩ Cao Đài nổi tiếng v́ kiên tŕ và can đảm. Tuy nhiên
người ta thường hay quên là quân đội Cao Đài chiến đấu cho tôn giáo
và cho xứ sở họ v́ thế có những cuộc xung đột, những khó khăn từng
thời kỳ xuất hiện và cuối cùng không khí đố kỵ lan tràn khắp các cấp.
        Có lẽ Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ước mong giữ một vai tṛ trung
gian, ḥa giải và được đưa lên hàng giáo phẩm cao nhất. Những liên hệ
của Ngài với các đoàn thể chính trị, ngay cả đoàn thể đối nghịch, lập
trường đôi khi lỏng lẻo Ngài đưa ra làm người ta ngờ vực Ngài, dù Ngài
là một nhân vật nổi tiếng, có ảnh hưởng và được người ta nghe theo lời
cố vấn của Ngài. Nhiều lần Ngài cố gắng liên kết mọi lực lượng chiến
đấu chống cộng. Thế nhưng mỗi đảng phái lại muốn bảo toàn lập trường
chính của họ thành ra những nỗ lực của Ngài không kết quả lắm.
        Ngày mùng 5 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm lập
chính phủ đầu tiên, trong những điều kiện khó khăn mà mọi người đều
biết, sau hội nghị Genève. Ông Diệm muốn nắm quyền hành trên toàn lănh
thổ Việt Nam, cố gắng thỏa thuận lâu dài với các đảng phái và đem lại
cho quân đội vị trí xứng đáng cho một quốc gia có tổ chức. Nhưng các
đảng phái tôn giáo chính trị đang chiếm ngự một phần lănh thổ, không
muốn uy quyền của họ bị thu hẹp. Năm 1955, Thủ Tướng Diệm quyết định
bẽ gẫy những ổ kháng chiến. Ông sát nhập một phần quân đội Cao Đài vào
quân đội quốc gia. Ông triệt guồng máy quân sự có tổ chức của các đảng
phái tôn giáo chính trị và đưa quân đội quốc gia đến chiến thắng.
        Quân đội của tướng Văn Thành Cao đánh chiếm Ṭa Thánh Tây Ninh
ngày 17 tháng 2 để "duy tŕ trật tự công cộng". Ngày 24 tháng 2, tướng
Nguyễn Thành Phương đặt đơn vị của ông dưới quyền Chính Phủ Diệm.
Chiếu theo Thỏa Hiệp ngày 28 tháng 2, chức sắc Cao Đài Ṭa Thánh Tây
 Ninh chỉ c̣n sinh hoạt hoàn toàn tôn giáo và quy theo
luật lệ của một nước Cộng Ḥa.
        Ba mươi năm sau ngày thành lập, đạo Cao Đài mới t́m lại con
đường tu đạo. Một Hội Nghị tại Ṭa Thánh diễn ra từ ngày 11 đến 14
tháng 5 năm 1957 Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang chưởng quản Hội Thánh.
 Hai năm sau, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc qui tiên tại Nam Vang,
 thọ 70 tuổi.
        KHÍA C[1]NH TÔN GIÁO
        Đạo Cao Đài do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ lập một nền
tôn giáo tại Việt Nam đêm Giáng Sinh ngày 24 tháng 12 năm 1925. Đúng
ra phải gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là nền đạo do Thượng Đế khai lần
thứ ba tại Đông Phương.
        Đạo Cao Đài dựa vào chu kỳ trong vũ trụ cho rằng Đức Chí Tôn
mới đầu hiện thân là vật thể tâm linh và qua ngôn từ để dẫn nhập các
đồng tử. Thời kỳ này gọi là Đại Đạo Nhứt Kỳ Phổ Độ và tương ứng với
thời kỳ Moise ở Tây Phương, các vị hoàng đế Phục Hy, Thần Nông và
Huỳnh Đế ở Đông Phương.
        Đại Đạo Nhị Kỳ Phổ Độ khai vào thời Đức Thích Ca Mâu Ni, Khổng
Tử, Lăo Tử ở Đông Phương và Chúa Giê Su, Mahomet ở Tây Phương.
Trong chu kỳ này, Đức Chí Tôn hiện thân là con người, làm con của Ngài
 là các Tông Đồ để truyền giảng Đức Tin của Đức Chí Tôn đến chúng
sinh.
 Mỗi chu kỳ chấm dứt bằng một sự mạt vận,(Hạ ngươn) thoái hóa xă hội.
Ngay chính tôn giáo cũng khổ sở về những đổi chiều tội lỗi. Đức Chí
Tôn đầy ḷng nhân ái phổ độ chúng sinh và dẫn dắt chúng sinh trở lại
con đường thánh đức (Thượng ngươn).
        Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lần này do sự thị hiện của thần linh.
 Đức Ngài dùng huyền diệu cơ bút để truyền đạo.
        Trên nguyên tắc, đạo Cao Đài không hề tự cho là một tôn giáo
mới, hay nhằm thay thế các tôn giáo hiện hữu. Đạo Cao Đài không chối
bỏ nền tảng giáo lư sẵn có trên thế gian này mà cũng không loại bỏ một
giáo lư nào cả v́ cho rằng giáo lư nào cũng có một nguồn gốc thần
linh. Thế nhưng chúng sinh trong lúc yếu đuối lại muốn đặt để ra tín
ngưỡng, cho là hơn các tín ngưỡng khác, những tác động của chúng sinh
gây nên sự thoái hóa các tôn giáo và khi chúng sinh xa lánh tôn giáo
tức là xa lánh con đường do Đức Chí Tôn vạch ra.
        Đức Chí Tôn nhất định quy "nguyên phục nhứt", hợp nhất tất cả
các giáo lư hiện hữu. "Kỷ nguyên Đại Đồng" ra đời. Các tín đồ Cao Đài
tuân theo lệnh thần linh chỉ có một mối lo duy nhất, làm sao loại bỏ
mọi dị đồng giữa các tôn giáo. Họ từ bỏ mọi ư tưởng phe phái, tỏ ra
rất khoan dung nhằm bảo đảm sự tồn tại của một đức tin duy nhất, nguồn
hạnh phúc của nhân loại. Phải chăng thế giới chẳng tranh đấu trong
mọi lănh vực để đạt tới Thống Nhất ?
        Như vậy ta có thể hiểu thế nào là ngũ chi phục nhứt trong đạo
Cao Đài (Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo). Trước
mắt chúng ta là một đề luận về sự ḥa hợp tôn giáo, thay v́ theo tiếng
gọi con tim hay thần bí, người ta dùng phương pháp thông thần lực.
        Nước Việt Nam biết thực dụng thông thần lực từ lâu. Trong
những đền thờ Tiên Đạo,người ta thường kêu gọi vong linh nhập vào đồng tử.
 Khi lên đồng, thần nhập vào hồn người lên đồng, thường là phái
nữ. Nhưng phải có một yếu tố nào mới để cách lên đồng hồi sinh. Thông
thần lực từ phương Tây thế kỷ qua du nhập vào Việt nam đầu thế kỷ này
đóng một vai tṛ hồi sinh . Trong các trường phái, phải kể trường
phái của Allan Kardec là được đặc biệt chú ư nhất.
 Như ta biết cái bàn Cơ được thay thế bằng Cơ Bút là cái giỏ có mỏ,
h́nh ống bằng mây, đường kính khoảng 20 phân bao lụa vàng và có một
cái tay cầm  bằng gỗ chạm đầu con phượng. Muốn tiếp xúc với thế giới
bên kia, hai đồng tử ngồi đối diện nhau, tay cầm cái giỏ lật ngược
lại. Và khi đồng tử tiếp xúc với vong linh, đồng tử làm cho cái giỏ
chuyển động. Mỏ phượng gơ vào một cái bảng có chữ quốc ngữ, gơ từ chữ
này qua chữ khác kết thành những từ, thành câu. Có khi mỏ phượng cắn
bút lông hay cây viết ch́, trực tiếp viết thành chữ quốc ngữ hay chữ
hán. Đôi khi mỏ phượng di chuyển đến một cái khay có cát mịn hay viết
trên không, trường hợp này hiếm xảy ra, và đồng tử phải khôn khéo lắm
mới đọc được câu viết.
        Giáo lư Cao Đài phát xuất từ những phương thức pḥ cơ. Đổng tử
góp nhặt những câu truyền giảng, đa số những thông điệp và chỉ thị
chính xuất phát từ vong linh Lư Thái Bạch, thi sĩ Trung Hoa thế kỷ thứ
VIII, rất sùng đạo Lăo, chết đuối v́ say rượu mà lại muốn vớt ánh
trăng dưới ḍng sông. Lư Thái Bạch là vị Giáo Chủ tinh thần của đạo
Cao Đài. Mọi câu truyền giảng bế Cơ vào năm 1930. Từ đó, đa số các thông điệp nhận được chỉ dùng để chú thích mà thôi, mà lại không được Ṭa Thánh Cao Đài chính thức thừa nhận. Tưởng cũng đừng quên trong số những vị vong linh tây phương hăng say nhất c̣n có Jeanne d'Arc và Victor Hugo được xếp lên hàng đầu.
        Đạo Cao Đài dạy rằng tất cả các tín ngưỡng đều là những biểu hiện khác nhau v́ tính cách đa dạng của nhiều thời đại và của nhiều giống người thờ phượng một Thượng Đế duy nhất, chúa tể vũ trụ. Đạo Cao Đài xác nhận hồn hiện hữu, ĺa khỏi xác, tiến bước trên con đường toàn  thiện qua nhiều kiếp, kể cả kiếp người để làm tṛn bổn phận đối với xă hội, gia đ́nh và cho chính bản thân ḿnh. Giáo lư Cao Đài cổ điển nhằ  cải thiện con người, giữ ǵn đạo đức và yêu thương nhân loại. Muốn được vậy, phải giữ giới cấm, gồm năm điều :
 - bất sát sanh;
 - bất du đạo;
 - bất tà dâm;
 - bất tửu nhục;
 - bất vọng ngữ.
 
        Tứ Đại Điều Qui (bốn điều người học Đạo phải sửa ḿnh: vâng
lời, khiêm cung, liêm khiết, kính) và tám con đường chánh (hiểu biết, ư chí, lời nói, hành động, đời sống, nỗ lực, tư tưởng, tĩnh tâm) sẽ dẫn con người đến chỗ toàn thiện.
        Lễ nghi tổ chức tại Ṭa Thánh Tây Ninh hay tại tư gia thật là đơn giản. Ngoại trừ những ngày lễ trọng đại được cử hành theo một thời khóa biểu tất định, lễ nghi mỗi ngày gồm bốn lần hầu lễ gọi là Tứ Thời (Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu) trước Thiên Bàn, th́ dâng hoa, rượu, trà, tượng trưng cho tinh, khí, thần.
        Trên bàn thờ có Thiên Nhăn thể hiện Đức Chí Tôn toàn năng, toàn quyền, hiện diện khắp nơi.
     Một ngọn đèn Thái Cực h́nh cầu bằng pha lê (tượng trưng cho  vũ trụ hay quả Càn khôn)) cháy sáng thường xuyên.

 Trên bàn thờ c̣n có một cái lư và hai cây đèn cầy cùng các lễ vật.
        Cách tổ chức của đạo Cao Đài đậm nhiều dấu tích của những người sáng lập ra đạo, tất cả đều là nhân viên hành chánh.
        Ṭa Thánh gần Tây Ninh, khoảng 100 cây số Tây Bắc Sài G̣n, chiếm một khoảnh đất rộng với Thánh Thất và nhiều dinh thự công hay tư, tạo thành một thành phố tôn giáo với một số dân gần 10 000 người.
   Quyền hành chỉ đạo đạo Cao Đài được phân chia thành ba Hội Thánh,  Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Hội Thánh Phước Thiện.
  Cửu Trùng Đài, tiêu biểu cho thế tục quyền. Đứng đầu một Đức Giáo Tông mà vong linh là Lư Thái Bạch. Ngài Lê Văn Trung chỉ là Quyền GiáoTông tại thế Khi Ngài măn phần, không ai được thiên phong.  

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc chỉ nhận chức vị Hộ Pháp. Kế tiếp là 3 vị Chưởng Pháp, 3 vị Đầu Sư, 36 vị Phối Sư, 72 vị Giáo Sư, 3 000 Giáo Hữu và một số các tu sĩ. Các chức vụ được chia đồng đều cho ba tôn giáo chính (Phật, Lăo, Khổng).
  Hiệp Thiên Đài tiêu biểu cho giáo pháp và quyền thông công với Trời được đặt dưới quyền Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cho tới khi Ngài măn phần. Hiệp Thiên Đài gồm một số chức sắc giống như Cửu Trùng Đài. 15 vị cầm đầu Hiệp Thiên Đài được phân chia làm 3 chi, chi giảng dạy về giáo luật, chi trọng trách về tu học, chi chuyên về đời.  Hội Thánh Phước Thiện thành phần như Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đàicó nhiệm vụ chính quản lư tài sản và t́m mọi phương tiện để cưu mang người khốn khó. Việc điều hành Ṭa Thánh Tây Ninh cũng nằm trong các trách vụ Hội Thánh Phước Thiện .
        Tổ chức đạo Cao Đài c̣n phải kể các đại hội, các ban trị sự. Thế nhưng nhiều chức vụ lại thiếu người đảm trách và ngày nay sự khiếm khuyết c̣n nhiều hơn thế nữa v́ người th́ qua đời và cũng v́ biến cố xảy ra.
        Trên phương diện lănh thổ, sự phân chia hành chánh được duy tŕ v́ lư do thực tiễn. Năm vùng đều có mỗi vị Giáo Sư cai quản, các chức sắc nhỏ hơn hành xử trong các quận tùy theo nơi nào đạo Cao Đài có tín đồ. Tưởng cũng nên nhắc lại cách tổ chức Ṭa Thánh Tây Ninh không liên hệ ǵ tới cách tổ chức các chi hội Cao Đài hiện hữu thường đơn giản hơn. Người ta phê b́nh nhiều cách về đạo Cao Đài và nhiều bài báo cũng đă đề cập tới.
        Trong tờ "Dépêche Coloniale" (Tin Diện Thuộc Địa) đề ngày 15-05-1928, Jehan Cendrieux bàn về những nguyên nhân đưa tới sự h́nh thành đạo Cao Đài, cho rằng nước Pháp quá cả tin sẽ tây hóa Đông Dương đưa tới t́nh trạng một sự tiến hoá quá nhanh chóng làm cho Đông Dương thờ ơ với nền tảng truyền thống đến nỗi nước "Việt Nam hấp hối hổ thẹn không dám nh́n lại đằng sau và tự cảm thấy c̣n bám víu vào quá khứ với vài hối tiếc nào đó". Thành ra con người đi t́m một lối thoát ... trong lănh vực dễ dàng đạt tới.., nghĩa là chuyện d́ thường. Từ đó đạo Cao Đài đă được nhiều người hưởng ứng nhiệt liệt khi mới xuất hiện.
        Tờ "Midi Colonial" (Nam Kỳ Thuộc Địa) ngày 01-01-1931 nói tới một sự "lường gạt quy mô", một "mối nguy hiểm thực sự cho nền an
ninh Đông Dương". Tuy nhiên, trong những năm 1930, 1931, các phong trào Việt Minh gây đẫm máu vài vùng trong khi nhóm Cao Đài lại không liên quan ǵ đến. Dân biểu Đông Dương Ernest Outrey, lúc đầu rất là chống đối đạo Cao Đài, ngày 18-07-1932 viết :" Quả thực từ lâu tôi rất hoài nghi và đố kỵ nhóm Cao Đài. Tôi đă thực tâm yêu cầu chính quyền
phải khắt khe kiểm soát họ. Nhưng, hôm nay tôi tin rằng những tin tức người ta cung cấp cho tôi, nếu không hoàn toàn sai lầm th́ cũng quá thổi phồng... Sự kiện này làm tôi quyết định đ̣i hỏi cho họ có được một chế độ tự do về mặt tôn giáo.
        Thực ra, tất cả những ai v́ chức vụ, quyền lợi hay quả đoán gắn chặt với một nền trật tự được thiết lập tại Đông Dương và khi thấy một phong trào mang mầu sắc tôn giáo ra đời trong hoàn cảnh xă hội khó khăn, với các tín đồ dấn thân vào phong trào quốc gia ngày càng bành trướng, cảm thấy lo ngại. Lư do này giải thích phần lớn những sự chống đối đạo Cao Đài. Và những kẻ chống lại thông thần lực lên án một giáo lư dựa vào pḥ cơ và cho rằng không thể chấp nhận được.
        Lúc đầu đạo Cao Đài phát triển nhờ hoàn cảnh thuận lợi, nhưng sau đó lại gặp nhiều khó khăn v́ các biến cố xảy ra.  Những sự thành lập các chi phái làm suy giảm, chánh quyền ngăn chặn đạo bành trướng.  Sau đó đạo lu mờ một thời gian và người ta thấy một phong trào chính trị-tôn giáo lớn mạnh giữa năm 1942 và 1955, một h́nh thức quốc gia trong quốc gia.
        Trật tự tại Việt Nam văn hồi với Hiệp Định Genève không thể dễ dăi với một hoàn cảnh như vậy. Mọi người đều biết những ǵ dă xảy ra. Những vị lănh đạo quốc gia đă khôn ngoan tránh được hiểm họa. Đức tin chân thành của các chức sắc Cao Đài và các tín đồ đă cưu mang được đạo và đạo Cao Đài ngày nay là một tín ngưỡng nổi tiếng Đông Nam Á, khả kính cho mọi tín ngưỡng chân thật.

 

* GUSTAVE MEILLON