Chân Lư Toàn Năng

Biên khải Huỳnh Tâm

 

Chân lư Đại Đạo trải rộng ba thời kỳ: Từ Bi Bác Ái Công B́nh, Tức là Đại Đạo tam kỳ phổ độ Cao Đài " một tôn giáo có hơn 3 triệu tín đồ, khắp thế giới. Ṭa Thánh Cao Đài tại tỉnh Tây Ninh được xem là một ngôi đền thờ vĩ đại, với lối kiến trúc tổng hộp đức tin toàn năng, có thể chứa nhiều triệu tín đồ hành lể cùng một lúc
I.- Nguyên Cơ Cao Đài hiện hữu .
 Trước thế kỷ thứ 18, giữa năm châu, trải qua các thời đại, đă có nhiều cuộc tiếp xúc nhưng chưa được sâu xa liên tiếp để các dân tộc châu này hiểu biết rành mạch các dân tộc châu khác. Sự khuyết điểm lớn lao ấy do hai nguyên nhân là : sự thiếu các phương tiện giao thông và các phương pháp khảo cứu của khoa địa lư c̣n đang thời kỳ ấu trĩ. Từ thế kỷ thứ 18 trở đi, khoa học ngày một tiến bộ, các ngành hoạt động của nhân loại như Kinh-tế, Chính-trị, Mỹ-thuật vân vân... đều được cải cựu hoán tân.
 Kể từ ngày ấy, giữa năm châu không c̣n có những trở ngại khả dĩ làm bế tắc sự giao thông nữa và sự tiếp xúc giữa các dân tộc mỗi ngày một rộng. Nhờ sự gặp gỡ chung đụng hàng ngày ấy mà các tư tưởng được đem ra so đọ nhau để phân biệt cái hơn cái kém và bổ khuyết cho nhau. Nhưng khoa-học càng tiến bộ th́ con người tự nhận thấy
 không đủ sức hoán thông các khoa. V́ lẽ ấy mà sự chuyên môn từng khoa một bắt đầu xuất hiện. Sau người ta lại nhận thấy rằng hàng ngày càng chật hẹp làm cho con người không thể có một ư niệm tổng quát của " chơn lư " được; và v́ thế mà một số nhà bác học đă nêu lên thuyết : " Khoa học tổng hợp " cốt yếu điều ḥa những thành phần của " chân lư " mà các nhà chuyên môn đă t́m ra ở các khoa hầu lập lên một lư thuyết đầy đủ và rỏ ràng khả dĩ, đại lược, tiêu biểu cho đại thể của " chơn lư " vậy. Đó là về phương diện khoa học. Về phương diện triết lư, kinh tế người ta cũng nhận định rằng cần phải quan sát kỹ càng các lư thuyết, các chế độ đă được áp dụng từ trước đến nay nhiên hậu mới chung hợp những điểm giống nhau lại mà lập thành một lư thuyết, một chế độ, phù hợp với t́nh trạng hiện thời của nhân loại. Nói một cách khác, bất cứ ở một ngành hoạt động nào của nhân loại, hiện nay người ta hướng về một chủ nghĩa, một chế độ có tính cách đại đồng. Tôn giáo là một trong các hoạt động của nhân loại th́ lẽ dỉ nhiên không ngoài phạm vi của t́nh trạng ấy. Về phương diện này, ở Ấn độ sao khi đă nhận rơ ràng các tôn giáo là muôn ngh́n mảnh kính màu : xanh, đỏ, tím, vàng, v.v... che ngọn đèn duy nhất bên trong là " chơn lư tuyệt đối " và không một tôn giáo nào nắm trọn " chơn lư tuyệt đối " ấy, một số đạo gia trứ danh đă đề nghị một vài nguyên tắc đại cương của nền tôn giáo đại đồng tương lai. Đồng thời ở Âu, ở Mỹ hoặc Á có những hội nghị quốc tế tôn giáo, hội họp đại biểu các tôn giáo hiện hữu trên hoàn cầu. Trong các
 hội nghị ấy đại biểu của bất cứ một tôn giáo nào đều có quyền lên diển đàn thuyết minh giáo lư của tôn giáo ḿnh. Kế quả của các hội nghị quốc tế ấy là giúp các tôn giáo hiểu biết nhau thêm hơn và nhân đó san phẳng những thành kiến hẹp ḥi xúi giục tôn giáo này chống tôn giáo khác. Trong thời gian ấy th́ năm 192 Nam phần nước Việt Nam xuất hiện Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tục gọi là Đạo Cao Đài có mục đích dung ḥa tứ giáo là Nho, Thích, Đạo và Gia Tô.
II.- NGUYÊN DO Đ[1]O CAO ĐÀI
 Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay là Đại Ân-xá Kỳ Ba (Troisième manifestation de la Miséricorde divine ), tục gọi là Đạo Cao Đài, là một nền tôn giáo mới, dung hoà triết lư tứ giáo là Nho, Thích, Đạo và Gia Tô do đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh là Cao Đài dùng thần cơ diệu bút lập nên. Người Việt Nam đầu tiên được hân hạnh làm đệ tử Đức Cao Đài là Quan Phủ Ngô Văn Chiêu, người quận B́nh Tây thuộc tỉnh Chợ Lớn ( Nam-Việt ).
Ngày 1 tháng 3 năm 1920, ông Ngô Văn Chiêu được đổi ra Hà Tiên, một tỉnh thuộc miền duyên hải phía Tây của Nam Việt. chu vi tỉnh
 này rất nhỏ và gồm có 4 tông. Tuy vậy, từ xưa tới nay Hà Tiên đă được nổi tiếng là một nơi thắng cảnh, sơn thủy đủ. Trên lục địa th́ có các núi như núi Lăng ngó thẳng ra bể ( nơi ấy có ngôi mộ của ông Mạc Cửu, cựu thần nhà Minh sang trú ngụ tại Việt Nam và được các chúa Nguyễn cho phép khai phá và cai trị đất Hà Tiên ) núi Thạch Động và xa xa có núi Đá dựng ; trước mặt Châu Thành Hà Tiên th́ có núi Tô Châu ( Đại Tô Châu và Tiểu Tô Châu )
 vừa là núi vừa là hải đảo ngó thẳng ra Đông Hồ ; xa nữa th́ có núi Mũi Nay, Ḥn Chong, v.v... Đá các núi này toàn là đá vôi cho nên có lắm động lắm hang như ở miền núi tại Bắc Việt và Đà Nẳng ( Trung Việt ). Cái cảnh rất nên thơ ấy có ảnh hưởng rất lớn đối với dân chúng, nhứt là về phương diện tinh thần. Nơi ấy, lúc nào con người cũng đứng trước hai hiện tượng là : núi non chớn chở, mặt bể bao la, làm cho con người tự thấy ḿnh nhỏ bé, yếu ớt đối với vũ trụ hùng tráng, uy nghi, rồi con người liền dẹp bớt ở thâm tâm cái chi là phàm phu tục tử, để quay về với vũ trụ là một nguồn vô tận cho hồn thơ và ḷng tín ngưỡng. Bằng chứng là : Đồng bào ở Hà Tiên là một trong ít nơi ở Nam Việt đă sớm có đàn phù cơ thỉnh tiên. Vốn mộ đạo từ lâu, ngày nay quan phủ Ngô Văn Chiêu lại được ở trong khung cảnh ấy th́ lẻ tất nhiên đạo tâm của ông bộc khởi một cách lạ thường. Tuy c̣n làm việc chính phủ, ông vẩn thường lên núi Thạch Động để phù cơ thỉnh tiên. Có một vị tiên cô xưng danh là Ngô Kim Liên giáng cơ cho ông hai bài thi như sau :

 

1.) Vẳng vẳng nhạn kêu bạn giữa thu,
Rằng Trời cùng Đất vẩn xa mù,
Non Tây ngoảnh lại đường gai gốc.
Gắng chí cho thành bực trượng phu.
2.) Ngần ngần trắng tỏ giữa trời thu,
Cái cảnh Tây phương vẩn mịt mù,
Mắt tục nào ai trông thấy đấy,
Lắm công tŕnh mới đúng công phu.

 
 Ngô tiên cô khuyên tu nhưng quan phủ Ngô Văn Chiêu chưa ngộ đạo. Ngày 26 tháng 10 năm 1920, ông được đổi ra làm cai quản quần đảo Phú Quốc.Phú Quốc là một quần đảo rất đẹp và rất trù mật phong phú. Giữa đảo có núi Đông Dương cao hơn một trăm thước. Chính tại trên đỉnh núi này mà quan phủ Ngô Văn Chiêu thường lên lập đàn thỉnh tiên. Dân chúng lấy làm lạ là : trước khi ông đến trấn nhậm sự phù cơ thỉnh tiên rất khó, lập năm ba đàn cơ, mới thấy có tiên giáng một lần. Kể từ khi ông ra trấn nhậm tại đảo đến sau, hể ông lập đàn cơ th́ có Tiên giáng.
Sau có một Tiên ông không chịu xưng danh biểu ông phải chịu làm đệ tử th́ sẻ dạy đạo và biểu ông bỏ kinh Minh Thánh đừng tụng nữa. Tới sau mới biết Tiên ông đó tức là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế vậy.Một bữa kia Tiên ông giáng cơ bảo ông phải lo tu và ăn chay thêm cho được 10 ngày. Ông nghĩ rằng : " Ḿnh đương làm quan, nay người này mời mai người khác thỉnh, nếu chịu ăn chay 10 ngày sau rủi quên ăn mặn th́ có tội với Trời Đất. Nhưng nếu theo lời dạy mà được kết quả ǵ th́ cũng ráng mà ăn. Nếu mà ăn chay 10 ngày rồi chết c̣n phải chịu luân hồi th́ thà là ăn 2 ngày c̣n hơn, miễn là ḿnh tu nhân tích đức, chẳng làm trái với lương tâm th́ thôi. " Trong trí ông định để có dịp cầu Tiên ông giáng xuống sẽ bạch lại như vậy. Cách ít lâu có người thợ bạc ở gần đó có chuyện muốn cầu tiên đến, mời ông chứng đàn. Tiên ông giáng cơ ; ông chưa kịp bạch hỏi tâm sự, th́ cơ viết như vầy : " CHIÊU, tam niên trường trai. " Thấy vậy ông bối rối v́ ông chưa chịu ăn chay 10 ngày mà nay Tiên ông lại bảo trường chay ba năm !
 Ông mới bạch rằng :
 " Bạch Tiên ông, Tiên ông dạy th́ đệ tử phải vâng, song xin Tiên ông phải bảo hộ đệ tử, chớ trường chay ba năm lâu quá chẳng biết đệ tử có chịu nổi hay không và xin Tiên ông bảo lănh, nếu đệ tử vâng theo lời day th́ phải có chứng quả chi mới được. " Tiên ông bảo cứ việc giữ theo lời dạy, sau rồi đệ tử sẽ hiểu rơ.
 Quan phủ Ngô văn Chiêu khởi sự trường trai, học đạo kể từ đấy ( 8 Février 1921 ). Tiên ông thường giáng cơ truyền đạo cho ông tu và dặn phải giữ bí truyền chừng nào tới thời kỳ khai đạo th́ Tiên ông sẽ dạy.
 A) CẢNH BỒNG LAI
 Một bửa Tiên ông giáng cơ, ông mới bạch rằng : " Bạch Tiên ông, nghe rằng cảnh Bồng lai xinh đẹp vô cùng. Bạch Tiên ông có thể nào cho đệ tử được thấy cảnh ấy không ? " ( Cơ gỏ một cái mạnh chớ không trả lời ).
 Cách một ích lâu, một buổi chiều kia ông ra hứng mát ngoài mé biển, thấy mịt mù trời nước, sóng dợn ba đào. Bổng chốc ông thấy lần lần từ chổ trời nước giáp nhau lộ ra một cảnh chẳng biết một cảnh nào mà thiệt là xinh đẹp ; cảnh đó vừa khuất lại lộ ra cảnh khác. Ông ngồi coi mê mẫn, quên lửng rằng thân c̣n ở chốn phàm trần. Được chừng lối mười lăm phút đồng hồ th́ cảnh ấy mới lu lần rồi tan mất.Sau hầu cơ Tiên ông mới cho biết đó là cảnh Bồng lai. Theo lời ông ước nguyện, nên Tiên ông cho ông thấy để phấn chí mà lo tu.
 B) THIÊN NHĂN XUẤT HIN LẦN ĐẦU TIÊN Tuy ông chịu làm đệ tử của Tiên ông chớ chưa lập bàn thờ, thờ Tiên ông v́ không biết cách thờ làm sao. Một bửa sớm mai lối tám giờ sáng ông đương ngồi trên vơng bỗng đâu ông thấy trước mắt cách xa độ hai thước tây, lộ ra một con mắt thiệt lớn, rất tinh thần, chói ngời như mặt trời, ông lấy làm sợ hăi, lấy hai tay đậy mắt lại chẳng dám nh́n nữa. Độ chừng nữa phút đồng hồ ông mở mắt ra th́ thấy cũng c̣n con mắt mà lại chói sáng hơn nữa. Ông bèn chắp tay vái rằng : " Bạch Tiên ông, đệ tử rơ biết cái huyền diệu của Tiên ông rồi : đệ tử xin Tiên ông đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên ông bảo thờ như vậy th́ xin cho biến mất tức th́ ". Vái xong th́ con mắt mờ lần lần rồi biến mất. Như vậy mà ông cũng chưa thiệt tin nên chưa tạo Thiên Nhăn mà thờ. Cách vài ngày sau ông cũng thấy y như lần trước nữa ; ông cũng nguyện sẽ tạo Thiên Nhăn mà thờ th́ con mắt ấ tự nhiên biến mất. Sau ông hầu cơ hỏi cách thờ phượng th́ Tiên ông day vẽ con mắt theo như ngài đă cho thấy mà thờ và xưng là Cao Đài Tiên ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát và dạy quan phủ Ngô văn Chiêu phải kêu Tiên ông bằng Thầy mà thôi. Ấy vậy Đạo Cao Đài ra đời từ khi đó, mà chỉ có một ḿnh quan phủ Ngô văn Chiêu biết mà thôi. Chư nho hầu đàn thấy vậy điều lấy làm lạ v́ thuở nay chẳng hề thấy kinh sách nào nói đến danh hiệu Cao Đài Tiên ông; duy có một ḿnh quan phủ Chiêu thông minh trí tuệ xem ư tứ mấy bài thơ của Đức Cao Đài cho th́ ông đoán chắc rằng Đức Thượng Đế giáng lâm.
 C) ĐỨC CAO ĐÀI TRUYỀN Đ[1]O CHO ÔNG NGÔ VĂN CHIÊU Lần lần Đức Cao Đài truyền Đạo cho ông tu. Chừng ông đă quyết chí tu tŕ, trường trai, giới sát th́ ông nguyện với Đức Cao Đài rằng : " Nếu độ ông thành Đạo th́ ông sẽ lo độ lại chúng sanh tu theo phước đức của mỗi người. " Lúc ông tu được ba năm rồi th́ Đức Thầy có khuyên ông như vầy : " Ba năm lao khổ độ nhất nhân, mắt Thầy xem rơ ḷng đă chắc,
 thương v́ con trẻ hăy c̣n thơ, gắng chí tầm phương biết Đạo mầu. "
Lúc ông trấn nhậm tại Phú Quốc nhân dân tới thưa kiện th́ ông thường khuyên : " phải giữ chữ "H̉A" với nhau chớ nên sanh chuyện, hảy lo làm ăn ". V́ vậy mà một ít người không ưa xúi giục dân kiện nên ông mới đắc lịnh đổi về Sài G̣n vào ngày 30 tháng 7 năm 1924 ( Trích trong quyển tiểu sử ngài Ngô Văn Chiêu). Giữa cảnh phồn hoa náo nhiệt của Sài thành ông vẩn tiếp tục thực hành phương pháp tu thân của ông và thỉnh thoảng có độ một số thân bằng cố hữu nhập đạo.
D) Đạo Cao Đài xuất hiện tại Sài G̣n. Vào trung tuần tháng 7 năm 1925, một nhóm công chức thuộc sở Thương Chánh Sài G̣n thường họp nhau lại để mỗi buổi chiều xây bàn, thỉnh vong các vị quá vảng về làm thi họa vận ( phong trào xây bàn (table tournante) lúc ấy rất thịnh hành ở Sài G̣n ). Lúc đầu vong linh của các thân nhân các vị hầu đàn về. Sau lại có cửu vị Tiên nương rồi lần lượt có chư Tiên, chư Phật và sau rốt có một vị Tiên Ông xưng danh là A.Ă.Â, giáng xuống làm thơ họa vận với chư vị hầu đàn. Đến đêm 24, 25 tháng 12 năm 1925, Đức A.Ă.Â. giáng xuống cho biết Ngài là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế bấy lâu lấy tá danh là A.Ă.Â. để dể bề độ dẩn chư đệ tử vào đường Đạo và từ nay ngài lấy tá danh là Cao Đài để mở đạo tại phương Nam. Đoạn ngài thâu chư vị hầu đàn làm đệ tử và giao phó phận sự truyền đạo cho. Trong số này có mấy vị sau đây được lănh trọng trách trong sự truyền bá Đạo Trời là : Chư quư Ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Cao Huỳnh Diêu, Trương Hữu Đức và Nguyễn Trung Hậu. Sau Đức Cao Đài lại thâu ông Lê Văn Trung cựu nghị viên Hội-Đồng quản hạt và Hội-Đồng tư vấn của chính phủ Nam Kỳ làm đệ tử và dạy họa Thiên-Nhản để thờ. Lệnh này vừa ra tất cả chư đệ tử hết sức phân vân. Biết thế Đức Cao Đài dạy chư quư ông Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư v.v... phải đến ông Ngô Văn Chiêu để ông chỉ cho. Tuân lịnh Ngài mấy vị nói trên t́m đến ông Ngô Văn Chiêu. Ông Ngô Văn Chiêu cho biết việc thờ Thiên-Nhản là chính lư và chính ông cũng được lịnh thờ như vậy lâu rồi. Kể từ ngày đó hai nhóm đệ tử tuân lịnh Đức Cao Đài hiệp nhau lại một làm để lo phổ độ nhân sanh. Ngài lại dạy thêm rằng : " Mọi việc đều phải do nơi Chiêu là anh cả ". Từ đây trở đi mối đạo bành trướng một cách nhanh chóng lạ thường. Mỗi đêm trong một đàn cơ có đến mấy trăm người nhập môn. V́ mỗi ngày phải tứ thời công phu tinh luyện lại thao phép tu đơn không nên xen lộn vào chổ đông người để khỏi nhiểm trược cho nên Quan Phủ Ngô Văn Chiêu phải nhường phận sự độ dẩn đại chúng cho chư vị nói trên. Tuy vậy ông vẩn khuyến khích anh em làm việc ấy bằng cách giúp cho một số anh em có đủ phương tiện vật chất để hành đạo.
Đ) Ông Ngô Văn Chiêu trở về Cần Thơ. Phái Chiếu Minh ra đời. Sau ông lại trở Cần Thơ lập lên CHIẾU-MINH-ĐÀN một cơ quan của Cao Đài Đại Đạo vừa chuyên lo tu đơn vừa ra kinh sách khuyến thiện. Ấy là phái Chiếu-Minh Vô-Vị. Thảo lư, cách Cần Thơ 3 cây số, nơi ông thoát xác đă được chọn làm Tổ đ́nh của cơ quan Chiếu-Minh không có liên lạc chi với ṭa
 thánh Tây-Ninh. Từ năm 1926 trở đi, dưới sự lảnh đạo sáng suốt, cương quyết và hăng hái của chư quư ông Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc, Cao Huỳnh Cư, Nguyễn Ngọc Thơ, cơ phổ độ mệnh danh là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lan tràn khắp mọi nơi, từ thành thị tới thôn quê, rước vào cửa đạo đầy đủ tất cả hạng người : sang hèn có, giầu nghèo có, già trẻ có, nam nử có, người Âu có, người Á có. Hiện nay ngoài Nam, Trung, Bắc-Việt ra, Đạo Cao Đài đă truyền bá sang Cao-Miên, Lào. Trước trận thế giới chiến tranh 1939 nhiều vị chức sắc đă
 được lệnh Hội Thánh đem truyền giáo bên Hoa Nam ( Trung Quốc ) và bên Pháp. Tại Ba-Lê có nhiều chức sắt người Pháp đại diện cho
 Hội Thánh Tây-Ninh. Nhiều cường quốc dân chủ trên hoàn cầu cũng đă để ư đến đạo Cao Đài như : Hiệp-Chủng-Quốc, Thụy-Sĩ, Phi-Luật-Tân, Ấn-Độ (Phái Phật-Giáo) và trước kia Nhật-Bản.
III.- CÁC LỜI TIÊN TRI mối đạo mà Đức Ngọc Ngọc-Đế đă khai thông không phải là việc thường t́nh, xuất hiện không ai hay biết. Mấy ngàn năm về trước, trong các kinh các sám, chư Phật chư Tiên đă cho biết trước việc ấy, hoặc ở bên Thái-Tây hoặc ở bên Á-Đông. Đây tóm tắt các lời tiên ấy như sau này :
1.- Lời Tiên tri trong quyển Phật tông nguyên lư Trong quyển kinh này mấy chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đă được nêu lên. Chính Đức Thế Tôn Văn Phật đă có nói : Sau Ngài sẽ có một Đức Phật lớn hơn Ngài ra đời. Đức Phật lớn hơn Đức Thích Ca chỉ là Đấng Tạo Hóa, Đức Thái Cực Thánh Hoàng mà thôi.
2.- Lời tiên tri trong quyển Thanh Tịnh kinh.
Trong quyển Thanh Tịnh kinh lưu truyền lâu đời trong giới tu hành thuộc Lăo giáo có đoạn như vầy :
 " Thanh Tịnh kinh hữu di tích. Công viên quả măn chỉ thọ đơn thơ. Thiên mạng phương khả truyền đạo Tam Kỳ Phổ Độ ". Thích nôm : Kinh Thanh Tịnh có dấu tích để lại rằng " Công đầy quả đủ sẽ được lĩnh thọ đơn thơ ( tức là kinh dạy cách luyện ). Người có mạng Trời khá nên truyền đạo T.K.P.Đ. ".
3.- Đạo Tam Thanh. Vào thập ngũ thế kỷ, bên Trung Quốc có một vị đạo sĩ tên là Ngô Chí Hạc (ou-tche-Ho) có lập lên phái Tam Thanh, chuyên thờ Giáo chủ ba đạo lớn tại Trung Quốc là :
Đức Lăo Tử (Đạo giáo)
Đức Khổng Tử (Nho giáo)
Đức Thích Ca (Thích giáo)
 Đạo Tam Thanh là bước đầu tiên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay vậy:" Ở Trung Quốc th́ từ đời Tam quốc, Vương Bật cho sách Lăo Tử và Chu dịch là một loài; đến Nam Bắc Triều các nhà đạo học cho Lăo học với Phật học vốn là một ḍng; rồi đến đời Tấn có sách: " Du đạo thiên " xướng luận điệu : "Nho Phật nhất trí ". Tiếp đến Vương Thông đời Tùy tuy là một nhà nho thuần túy mà cũng cho Tam giáo là đồng nhất. Đến đời Đường th́ tư tưởng ấy cũng phổ thông lắm. Lưu Mật làm sách "Nho Thích Đạo b́nh tâm luận cũng nói về Tam giáo đồng nguyên" (Theo Việt Nam Văn Hóa Sử Cương Đào Duy Anh).
4.- Lời tiên tri trong quyển Vạn Pháp quy tông. Lưu truyền trong nhân gian hơn mấy trăm năm nay quyển Vạn Pháp quy tông do các đạo sĩ truyền lại có câu : " Cao Đài tiên bút
 thi văn tự " chỉ rỏ ràng : trong đạo Cao Đài mai sau này sẽ có văn thơ của chư tiên do thần cơ diệu bút tiếp ra.
5.- Lời tiên tri của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm tục gọi là Trạng Tŕnh. Trong quyển "Bạch Vân am thi tập" hay là quyển sấm của cụ Trạng Tŕnh có đoạn nói như vầy :
 

  " Con mừng, búng tít con quay,
Vù vù chong chóng gió lay trên đài.
Nhà cha cửa đóng then cài,
Ầm ầm sóng dậy, hỏi người đồng lân ".

 
Nhiều người cho hai câu trên ám chỉ phi cơ bay liệng trên nóc nhà trong trận giặc vừa rồi. Nhưng hai câu sau khảng rỏ ư nghĩa ra làm sao. Sau khi ôn lại những việc đă xảy ra từ năm 1910 cho đến năm 1945 trong Đạo Cao Đài, th́ chúng tôi nhận thấy rằng : hai câu đầu có thể ám chỉ chữ "vạn" đúc bằng ciment hoặc bằng gổ mà trước năm 1939 trong Đạo Cao Đài người ta thường gắn trên các nóc thánh thất hoặc tịnh thất. Chữ "vạn" ấy là biểu hiện của nhà Phật h́nh giống như chong chóng đương quay. "Trên đài" ám chỉ nóc các thánh thất tịnh thất, v́ các thánh thất, tịnh thất thuộc đạo Cao Đài thường lấy biểu hiệu có chữ ĐÀI như : Trước lư minh đài, Bát quái đài vv... Vào năm 1940 sau khi cuộc thế giới chiến tranh lần thứ hai bùng nổ ở Âu th́ tại nước Việt Nam nhà đương cục Pháp ngờ rằng đạo Cao Đài có dính líu với đảng Quốc Xă Đức v́ biểu hiệu của đảng ấy cũng là chữ Vạn nhưng vẽ ngược lại, cho nên truyền lệnh gỡ chữ Vạn xuống, niêm phong các thánh thất, tịnh thất thuộc Cao Đài giáo và cấm chư đạo hữu lui tới lễ bái ở các nơi ấy. Đồng thời các chức sắc thiên phong đều bị bắt đi an trí nhiều nơi. Việc nhà đương cục Pháp đóng cửa các thánh thất, tịnh thất ăn với câu : "Nhà cha cửa đóng then cài" là v́ trong bài kinh "Đại La Thiên Đế" xưng tụng công đức Đức Cao Đài có tặng cho Ngài danh hiệu là Đại Từ Phụ và các thánh thất tịnh thất nơi thờ Ngài thực là nhà của Đấng Cha lành vậy.
Việc này đă xảy ra từ năm 1940-1941 nghĩa là sau khi người Nhật sang chiếm Đông Dương. Người Nhật đối với dân Việt Nam ta rỏ ràng là người láng giềng phía đông ; bởi thế mới có câu : "Ầm ầm sóng dậy hỏi người đông lân".
6.- Lời tiên tri của các Lăo sư Chi Minh Sư hay là Đại Đạo. Bên Trung Quốc sau khi nhà Thanh lên thay thế nhà Minh, một số cựu thần nhà Minh, không phục nhà Mản Thanh, bèn lên núi ẩn tu lập ra Chi Minh Sư, Minh Đường, hay là Đại Đạo. Một quyển kinh của các Lăo sư phái ấy đă được từ bên Trung Quốc chuyển sang Việt Nam. Ngoài b́a sách ấy có hai câu thơ tiên tri như vầy :
Cao như Bắc Khuyết nhân chiêm ngưỡng,
Đài tại Nam phương đạo thông truyền.
 Hai câu đối này cho biết Đạo Cao Đài sẽ xuất hiện tại Nam phương mà Đức Cao Đài là Giáo Chủ, Đức Cao Đài tức là Đức Huyền Không
 Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn ngự tại phương Bắc hay là Bắc Khuyết.
7.- Lời tiên tri trong Minh Thánh Kinh Linh Sám. Trong quyển Minh Thánh Kinh Linh Sám có câu : "Mạng hữu Cao Đài minh nguyệt chiếu" cho biết tá danh của Đức Ngọc Đế giáng trần mở nền châu giáo, sáng tỏ như trăng rằm.
8.- Lời tiên tri trong sách Ấu học tầm nguyên. Trong quyển sách Ấu học tầm nguyên có câu : "Đầu thượng viết Cao Đài", nghĩa là : nơi ở trên đỉnh đầu mọi người th́ gọi là "Cao
 Đài".
 
9.- Lời tiên tri trong quyển " Giác mê ca".
Quyển Giác mê ca mà tác giả là một đạo gia, có đoạn như vầy :
Hữu duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ,
Muôn đời c̣n tử phủ nên danh,
Ba ngàn công quả đặng viên thanh,
Mới đặng thiên thơ chiếu triệu.
Đoạn này báo cho biết trước rằng chỉ có người có duyên mới gặp được Tam Kỳ Phổ Độ để trở về quê xưa vị cũ.
10.- Lời tiên tri trong quyển kinh Tỉnh thế ngộ chơn. Trong quyển kinh này có đoạn sau đây :
Đại thiên tiên hóa hoằng chân đạo,
Trợ quốc cứu dân tích thiện luân.
Nam Hải Từ Hàng châu vận tế,
Tây phương Tiếp Dẫn Phật Đông Lâm.
Thích nôm.- Trước khi có cuộc biến đổi lớn ( Thay Trời Đất sẽ có một mối đạo chân thật khai ra giúp nước cứu dân làm điều lành đáng khen. Biển Nam có Phật Từ Hàng đi khắp để cứu độ. Phương Tây có Phật Tiến Dẫn đưa đến Đông Độ, xứ Phật.
Lại có đoạn cho biết trước như vầy : Mạt hậu kiền khôn đồng nhất đại, Thiên môn, vạn giáo, cộng quy căn.
Thích nôm.- Sau đời Hạ-Nguyên mạt kiếp Trời Đất đồng chung một dăy. Ngàn cửa, môn giáo, đều về một gốc. Như vậy th́ nền tôn giáo tổng hợp phần tinh túy giáo lư của các đạo khác đă được quyết định từ lâu.
11.- Lời tiên tri rút trong quyển kinh "Vạn diệu thiên thơ cổ bổn". Trong quyển kinh Vạn diệu thiên thơ cổ bổn có bài thơ như vầy :
 

" Tam giáo kim tùng cổ hoá sanh
Tiên thiên phương hữu thị Tam Thanh,
Phật, Pháp Nho hề quy nhất bổn,
Tự nhiên tà đạo tống tương tranh,
Vạn ức sơn hà giai hữu thử,
Tổng quy nhất phái đắc an thành.
Xà vĩ mă đầu khai đại hội,
Tam kỳ hậu thế hiển phương danh ".

 
Thích nôm.- Ba giáo Nho, Thích, Đạo nay theo xưa kia mà hóa sanh.
Đạo Tiên thiên co đường hay là Đạo Tam Thanh Đạo Phật, đạo Tiên, đạo Nho đều về một gốc. Lẽ tất nhiên đạo tà đều cũng tranh giành. Muôn ức cảnh sơn hà (muôn xứ, muôn nước) đều có như thế.
Đồng quay về một phái mới đặng yên ổn và nên việc, Cuối đuôi rắn, đầu con ngựa th́ khai đại hội, Đời sau đạo Tam Kỳ sẽ được rạng rỡ danh thơm.
12.- Lời tiên tri rút trong kinh nhật tụng của một phái tu thân tại Trung Việt.
Tại Trung Việt, 20 năm trước ngày khai đạo là năm 1926 có một phái người tu theo lối cư sĩ lấy hiệu là phái Minh sư (khác với phái Minh sư bên Tàu) mỗi ngày đọc kinh có thêm câu như vầy :
Con cầu Phật Tổ Như Lai,
Con cầu cho thấu Cao Đài Tiên Ông.
Đến khi các giáo sĩ đạo Cao Đài ra truyền đạo tại Tam quan (Trung Việt) th́ mấy vị này, sau khi nghe danh hiệu Đức Cao Đài, đều đến xin làm đệ tử ngay.
13.- Lời tiên tri lưu truyền tại Trung Việt đă lâu đời trước năm 1926, năm khai đạo.
Lời tiên tri ấy như vầy :
 

Canh dần mậu dần niên,
Kỷ măo canh th́n tiền,
Tự nhiên thiên phú tánh,
Cao Đài tân chân truyền.

 
 Lời tiên tri này nói rơ năm nào và báo trước rằng : " Trời sẽ khiến ḷng người theo đạo mới và Đạo Cao Đài sẽ đạt chân truyền ".
14.- Lời tiên tri trong hai bài thơ của chân linh cụ Thủ Khoa Huân cho năm 1913 (13 năm trước ngày khai đạo). Tại quận Cao Lănh (Việt Nam) ngày 3 tháng 1 năm 1913 các ông Văn nho, kỳ hào có họp nhau tại nhà ông Lê Quang Hiển, nhạc phụ của ông Diệp Văn Kỳ, để pḥ cơ thỉnh tiên. Khi cơ lên chân linh của cụ Thủ Khoa Huân, một nhà văn sĩ cách mạng bị xử tử h́nh tại Mỹ Tho giáng cơ cho hai bài thơ sau đây :
 

Dung tất Cao Đài nhiệm khuất thân,Tư triêm đào lư nhứt môn xuân.
Cánh tân bôi ức giang san cựu,
Trừ cựu thời thiêm tuế nguyệt tân.
Cửu thập thiều quang sơ bán lục,
Nhất luân minh nguyệt vị tam phân.
Thừa nhàn hạc giá không trung vụ,
Mục đỗ Cao Đài tráng chí thân.
 
 Thích nôm.- (của Cụ Thủ Khoa Huân)
Co dủi Cao Đài khỏe tấm thân,
  Dạo xem đào lư đượm màu xuân.
Giang san chẳng khác ngàn năm củ,
Ngày tháng chờ thay một chữ tân.
Chín chục thiều quang vừa nửa sáu,
Một vừng trăng rạng chửa ba phân.
thừa nhàn cỡi hạc không trung ruổi,
Chạm mắt Cao Đài khỏe tấm thân.

 
Trong hai bài thơ có nhắc đến bốn lần danh từ: Cao Đài. Thời buổi ấy các ông không rơ danh từ ấy có ư nghĩa ǵ ? Song các ông biết rằng đại cương hai bài thơ ấy có nói về quốc vận một cách sâu xa. Hai câu thi 5 và 6 có ư kỷ niệm ngày 3 tháng 1 năm 1913 v́ câu nào cũng ngụ ư số 3. Sau đàn cơ ấy ông Lê Quang Hiển để hai bài thơ này lên trang (cái khánh thờ) làm kỷ niệm. Măi đến năm 1927 Ṭa Thánh Tây Ninh phái chức sắc đến quận Cao Lănh truyền đạo và hai chữ Cao Đài đă được mọi người nói đến. Chừng ấy ông Lê Quang Hiển mới nhớ lại hai bài thơ của Cụ Thủ Khoa Huân đă cho 13 năm trước và đem ra tŕnh với chư chức sắc nói trên.
IV.- Ư NGHĨA CÁC DANH TỪ, CÁC BIỂU HIU, CÁC NGHI TIẾT TRONG Đ[1]O
CAO ĐÀI.
A - Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là ǵ ?
 Tức là đại ân xá kỳ ba. Từ khi mới có nhân loại và xă hội đến giờ đă có ba kỳ đại ân xá. Riêng về cựu đại lục (Thái Tây, Cận Đông và Á tế Á) có ba kỳ phổ độ như là :
 " Nhất kỳ phổ độ " tức là : Nhứt thiết Liên Hoa Thiên khai Tư hội, thuộc vào thời đại Đức Phục Hy bên Tàu. Trong thời kỳ này trước sau mấy vị Đại Thánh nhân sau đây ra đời cứu thế:
 Đức Nhiên Đăng Cổ Phật (Thích giáo). Đức Thái Thượng Đạo Quân (Tiền kiếp đức Lăo Tử, Đạo giáo).
 Đức Phục Hy, Nhơn đạo (Nho giáo).
 " Nhị kỳ phổ độ " tức là : Nhị thiết Long hoa Thiên khai sửu hội. Trong thời kỳ này, lần lượt, kẻ trước người sau, các vị Đại Thánh nhân này ra đời cứu thế :
 Đức Lăo Tử hay là Lăo Đam (Đạo giáo) Đức Khổng Tử hay là Khổng Trọng Ni (Nho giáo)
Đức Thích Ca hay là Đức Thích Ca Mâu Ni (Thích giáo)
 
 Đức Gia Tô giáo chủ (Thánh giáo). " Tam kỳ phổ độ " tức là : Tam Thiết Long Hoa Thiên Khai. " Huỳnh đạo " hay là Dần hội.Kỳ nào Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng điển quang lập đạo, quy các giáo lại làm một và không giao quyền giáo chủ cho người phàm
 nữa. Tại sao như thế ? Là tại trước kia, năm châu, bốn bể thiếu sự đi lại, phải sống lẻ loi, riêng biệt. Bởi thế Đức Ngọc Đế phải phái những vị giáo chủ hạ phàm tại mỗi châu tùy phong tục mà mở đạo, độ đời. Nay năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà, tŕnh độ nhân loại đă đi đến chổ đại đồng, một tôn giáo tương lai phải dung ḥa tất cả các giáo lư mới có thể thích hợp với bước tiến hóa của loài người. Đức Cao đài dạy rằng : " Nhiên đăng Cổ Phật thị Ngă. " Thích Ca mâu ni thị Ngă.
 

Thái Thượng, Nguyên Thủy thị Ngă.
Kim viết Cao Đài.
 
 Ở một nơi khác Ngài lại dạy rằng :
Phật Trời, Trời Phật cũng là ta.
Nhánh nhóc chia ba cũng một Già.
Thích, Đạo, Gia Tô, tay chưởng quản.
Thương dân xuống thế độ lần ba.

 
B - Ư nghĩa Thiên Nhản Ngay buổi đầu quan phủ Ngô Văn Chiêu đă thấy Thiên Nhăn hiện ra hai lần trước mắt và được lịnh Đức Cao Đài dạy phải họa Thiên Nhản mà thờ. Sau lại, chư quư ông Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc,
 Cao Quỳnh Cư chưa liên lạc với phái ông Ngô Văn Chiêu cũng đă thọ lịnh họa Thiên Nhản mà thờ. Buổi đầu v́ các đệ tử mới nhập Môn vẩn thắc mắc luôn về vấn đề Thiên Nhản cho nên Đức Cao Đài phải giáng xuống dạy rằng :
 " Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ thánh tượng con mắt mà thờ Thầy. Song Thầy nói sơ lược cho biết chút đỉnh:
 

" Nhăn thị chủ tâm,
Lưởng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên
Thiên giả, Ngă giả ! "

 
Thần là khiêm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ phổ độ này Thầy cho Thần hiệp tinh khí đặng đủ Tam bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập thánh.
Từ ngày Đạo bị bế th́ luật lệ hăy c̣n nguyên ; luật phát chẳng đổi, song thiên đ́nh mổi phen đánh tản Thần không cho hiệp cùng Tinh, Khí, đến đặng hoàn nguyên Chơn thần cho các con đặng đắc đạo.
 " Con hiểu : Thần cư tại nhăn. Bố trí cho đạo hữu con hiểu rỏ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó ".Tại sao thờ một con mắt ? Thờ một con mắt là v́ : số một là số khởi thủy của các số, có câu : " Vạn sự ṭng nhất ". Lại có câu " Nhất bổn tán vạn thù, vạn thù quy nhất bổn ". Nhất tức là ngôi Thái-cực v́ ngôi ấy là độc nhất vô nhị.
Tại sao thờ con mắt mở ? Thờ con mắt mở ám chỉ Đấng Chúa Tể Càn Khôn thấy tất cả mọi việc, lành cũng như dữ, vật nhỏ tế-vi cũng như vật lớn vĩ đại. Có câu : " Cao minh nhất mục quán san hà ". Như trên Đấng Chí Tôn đă giải sự thờ Thiên Nhản là ư nghĩa tượng trưng mà thôi chứ không phải là Đấng Tạo Hóa có h́nh dáng như vậy. Ngoài ra, sự thờ Thiên Nhản có ư nghĩa sâu xa về phêp luận đạo. Ngay buổi đầu một vị đại thiên phong muốn lên cốt Đức Cao Đài mà thờ. Ngài bèn giáng cơ ngăn việc ấy mà dạy rằng : " Thầy vốn là Hư vô chi khí, không giống cái chi hết. Các con chớ nên tạo h́nh Thầy mà thờ ". Sự thờ Thiên Nhăn có tính cách đại đồng là v́ bất cứ người nước nào cũng biết vẽ con mắt và sẽ vẽ qiống nhau cả.
C - Ư Nghĩa Hai Chữ Cao Đài.
 Để giải nghĩa tá danh của Ngài Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, vào năm 1927, trong một đàn cơ tại Cần Thơ, có dạy rằng :
 

Linh tiêu nhất tháp thị Cao Đài,
Đại hội quần tiên thử Ngọc-giai.
Vạn trượng hào quang tùng thử xuất,
Cổ danh bửu cảnh " Lạc Thiên Thai. "

 

Giải nghĩa :
 Nơi điện Linh tiêu, trên Thiên đ́nh, có một ngôi tháp gọi là Cao Đài ; quần tiên thường nhóm đại hội ở trước bệ ngọc ấy ; hào quang muôn trượng do đó mà chiếu ra.
Tên xưa của cảnh quư báu này là :Lạc Thiên Thai. Vậy Đức Ngọc Đế kỳ này lấy tên chổ Ngài ngự làm tá danh của Ngài.
D - Ư nghĩa Bạch Y :
 Tại sao chư môn đệ của Đức Ngọc Đế lại mặc bạch y ? Mặc bạch y có nghĩa là : lúc nào ḿnh cũng phải trau sửa tâm ḿnh cho trong
trắng, thanh khiết như sắc bạch của áo ḿnh mặc. Sắc bạch tượng trưng cho sự thanh khiết và vậy sắc bạch gồm tất cả các sắc vào đấy ; nó tượng trưng cho sự tổng hợp các màu. Đạo Cao Đài có ư nghĩa tôn giáo tổng hợp th́ dùng sắc trắng làm tượng trưng rất phải. Đạo hữu mặc bạch y nhưng chít hắt cân v́ chưa hoàn toàn phế trần hành đạo cho nên chưa toàn bạch. Trái lại, bên chi Thiên Thiên một phái của Đạo Cao Đài, đạo hữu phải trường trai tuyệt dục, phế trần hành đạo th́ mặc bạch y, chít bạch cân. Bên Đại Đạo Tam Kỳ phổ độ trong hàng chức sắc Cửu trùng đài th́ chỉ có Đức Giáo Tông mặc thiên phục toàn bạch ; kỳ dư chức sắc khác đều mặc thiên phục màu đỏ, vàng, xanh thuộc Tam phái là : Nho, Thích, Đạo. Bên Hiệp thiên đài trừ Đức Hộ Pháp, Thượng sanh, Thượng phẩm ra, chức sắc khác đều mặc thiên phục toàn bạch. Nên chú ư : Mặc thiên phục màu đỏ, vàng, xanh ở đây không có ư là : chưa hoàn toàn phế trần. Các chức sắc từ giáo hữu trở lên đều trường trai phế trần hành đạo cả.
E - Đạo Cao Đài Là Tôn Giáo Tổng Hợp Về Nghi Lể
1.- Các tiêu biểu a) Ư nghĩa tôn giáo tổng hợp rất rỏ rệt : Đức Ngọc Đế lấy danh hiệu là : " Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát " th́ danh hiệu ấy ám chỉ sự tổng hợp rồi. Thí dụ :
Cao Đài : thuộc Đạo Nho có câu : Đầu thượng viết Cao Đài.Tiên Ông : thuộc Đạo Tiên (phẩm chót của tiên gia).
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát : thuộc Đạo Thích.
Về lể nghi th́ có những khoảng sau này ám chỉ sự tổng hợp ấy.
b) Lễ phẩm : trên Thiên bàn th́ việc bày trí các lễ phẩm như sau : 5 cây hương tượng trưng 5 thời kỳ tiến hóa của người tu theo Thích giáo : Giới hương, Định hương, Huệ hương, Tri Kiếnhương, Giải Thoát hương.
c) Đèn Thái cực tượng trưng ngôi sao Thái cực.Hai cây Lưỡng nghi đăng ở ngoài tượng trưng ngôi Lưỡng nghi là : Âm Dương.
 d) Hoa tượng trưng cho Tinh ( le sperme cosmique ).Rượu tượng trưng cho Khí ( le souffle ).Trà tượng trưng cho Thần ( le principe intelligent ). Tinh, Khí, Thần là Tam bửu ( là 3 báu ) là nền tảng của sự sống c̣n của con người theo thuyết tu đơn.
 đ) Lễ sỹ : ( học tṛ lễ ) dưng hương, hoa, trà, rượu, ăn nhịp theo âm nhạc và chân đi chữ " Tâm" là di tích của Nho giáo.
e) Chuông : th́ gọi là Bạch Ngọc Chung Trống : th́ gọi là Lôi-âm-cổ.Trước khi nhập đàn hành lể, chuông trống đánh theo lối trống sấm của nhà chùa, nhưng mỗi chập 12 dùi ; phải 12 chập làm 1 hồi, phải 3 hồi cộng là 36 chập gọi là Ngọc Hoàng sấm. Đây là di tích của Thích giáo.
 g) Lễ phục : trừ vị Giáo Tông mặc thiên phục toàn bạch ; chư chức sắc thiên phong mặc thiên phục ba màu là : Màu đỏ,(Trí) thuộc về Nho giáo (Phái Ngọc) Màu xanh, (T́nh) thuộc về Tiên giáo (Phái Thượng) Màu vàng, (Ư) thuộc về Thích giáo (Phái Thái)
h) Trong khải hay sớ tâu th́ có nêu danh hiệu các đấng thiêng liêng sau đây : Đức Quỳnh-Kim Khuyết-Nội Huyền khung Cao Thượng Đế Ngọc-Hoàng Đại Thiên-Tôn ; Đức Diêu tŕ Kim mẫu Vô cực Từ tôn ;
Tam tông giáo chủ là : Đức Thích-Ca Mâu Ni ;
Đức Thái-Thượng Lăo Quân ;
Đức văn Tuyên-Khổng-Thánh ;
Tam kỳ phổ độ Tam trấn oai nghiêm là :
Đức Thường Cư Nam-Hải Quan Âm Như-Lai ;
Đức Lư-Đại-Tiên trưởng Thái Bạch kim Tinh ;
Đức Hiệp-Thiên Đại-Đế Quan-Thánh Đế-Quân. Kế đến :
 Đức Gia-Tô Giáo chủ Cứu-Thế Thiên Tôn ;
 Đức Thái-Công Tướng-phụ Quảng-Pháp Thiên-tôn ; Tam-Châu Bát-Bộ : Hộ-Pháp Di-Đà Thiên-Tôn ; Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.
 2) Về phương diện triết lư
Về phần triết lư hay là H́nh am thượng học : Đạo CAO ĐÀI nh́n
 nhận những nguyên tắc căn bản này của tứ giáo : Nho, Thích, Đạo và Gia Tô.
Nho giáo : Trí, Nhân, Dũng, Tu thân, Tề
gia, Trị quốc và B́nh thiên hạ : thuyết Trung Thứ ; Ngũ luân ; Ngũ thường. Sự thờ
 phượng tổ tiên ; Tu tâm dưỡng tánh.
 b) Thích giáo : Luật nhân quả : Nghiệp báo và luân hồi, Bát chánh đạo để thoát ṿng luân hồi ; từ bi ; bác ái nhập thế hữu vi, Tam qui Ngũ giới ; Minh tâm Kiến Tánh.
c) Tiên giáo : Thuyết Tam bửu, Ngũ hành và khoa tu luyện tâm lư, sinh lư để thoát tục siêu phàm (siêu thân), Tu tâm luyện tánh.
 d) Gia tô giáo : Ḷng bác ái, Đức khoang dung, Đức khiêm nhượng và Đức tin để đi đến Đạo !
đ) Những nguyên tắc của Đạo Cao Đài : Đạo Cao Đài mà vị giáo chủ là Đấng Chúa Tể Càn Khôn nh́n nhận những nguyên tắc sau đây làm nền tảng :
 e) Nh́n nhận một Đấng độc nhất vô nhị, tạo nên Càn Khôn Vũ trụ và muôn loài vạn vật. Đấng ấy toàn trí, toàn năng, ứng hiện khắp cùng Vũ trụ, trọn lành, trọn tốt, đại từ, đại bi, vô h́nh, vô ảnh, vô xú, vô thinh, vĩnh viễn, trường tồn, gọi là Trời (theo tiếng thông thường). Ngài có nhiều danh hiệu : Ngài là Đức Cao Đài của Tam Kỳ phổ độ, là Đức Huyền khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn hay là Ngôi Thái Cực Thánh Hoàng của người Trung Hoa ; Đức Chúa Trời hau là Đức Chúa Cha của Đạo Gia tô, Cơ Đốc v.v...
g) Nh́n nhận các Đấng thiêng liêng vô h́nh, chia làm ba hạng : Thượng đẳng thiêng liêng : Chư Phật, Tiên, Thánh. Trung đẳng thiêng liêng : Chư thần. Hạ đẳng thiêng liêng : Ma, Quỷ. Sự liệt các đấng thiêng liêng vào ba hạng căn cứ ở sự tiến hóa của các đấng ấy về phương diện siêu h́nh.
h) Nh́n nhận loài người là khôn ngoan hơn hết các loài sinh vật và có thể tiến hóa đến bậc chí thiện, chí mỹ.
i) Nh́n nhận trong mỗi cá nhân con người có hai phần :Phần vô h́nh gọi là linh hồn, phần hữu h́nh gọi là xác. Xác sau khi chết th́ hư hoại, hồn th́ vẫn c̣n. Đời sống con người có ư
 nghĩa là khi xác để hồn điều khiển trong những cử động có ư thức.
k) Nh́n nhận luật nhân quả mà cứu cánh là sự luân hồi chuyển kiếp để cho cá nhân, hoặc là phải gánh chịu hay thọ hưởng ở đời này hoặc đời sau cái kết quả của những điều sai lầm hoặc những điều thiện đă làm trong nhiều kiếp trước. con người do sự làm phúc, sự tích âm công, có thể sửa đổi số mạng ḿnh xấu ra tốt
 được trong một phần nào. Trái lại, các điều ác sẽ đổi số mạng của ḿnh tốt ra xấu.
 l) Nh́n nhận có những siêu h́nh trong không gian hợp với sự tiến hóa của các đấng thiêng liêng thượng đẳng mà tục gọi là Thiên đàng và các tầng khác hợp với tŕnh độ thấp kém của các thiêng liêng hạ đẳng gọi là Địa ngục.
 m) Nh́n nhận sự thờ cúng ông bà. Sự thờ cúng tổ tiên là phương pháp cụ thể hóa mối liên đới quan hệ trong thời gian của những người cùng họ và là phương pháp giúp cá nhân làm tṛn đạo hiếu đứng đầu các điều thiện. Nhưng sự thờ cúng ấy phải giản dị ; cần phải chú trọng phần tinh thần hơn là phần h́nh thức. Sự thờ cúng ấy không nên là một cớ để xa hoa phung phí.
V.- VŨ TRỤ QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN CỦA Đ[1]O CAO ĐÀI
A.- Vũ trụ quan :
Theo các lời của Đức Cao Đài và chư Phật, chư tiên giáng cơ truyền dạy th́ : trong cảnh không gian, trước khi Trời Đất định phân chỉ có khí hư vô (énergie cosmique) u u minh minh không sáng không tối, không sinh, không dưỡng tức là ngôi Vô cực Từ Tôn mà Đạo gia gọi là Diêu Tŕ Kim Mẫu. Khí Hư ấy vô cùng tinh túy, tế vi vô, cùng lớn rộng bao la, vô chung, vô thủy, chiếm cả không gian. Đức Lăo Tử gọi khí Hư Vô này là Đạo, là Đế. Bởi thế
 mới có câu : " Đạo sinh trước Trời Đất ". Lại có câu : " Đức sinh chi, Đức súc chi ".
Đến một thời kỳ kia tự nhiên trong khí Hư Vô ấy có một tiếng nổ lớn và một khối lửa đầu tiên hiện ra. Khối lửa ấy là ngôi Thái Cực Thánh Hoàng mà các Đạo gia gọi là Đức Hồng quân Lăo tổ về phương diện Vô vi chi đạo, hay là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế về phương diện hóa dục quần sinh, thống ngự vạn vật.
Ngôi Thái Cực sau khi đă xuất hiện, bèn phân định Âm Dương hay là ngôi Lưỡng Nghi ; ngôi Lưỡng Nghi ấy biến thành ngôi Tứ Tượng tức là ngôi Thái Âm, Thiếu Âm, Thái Dương và Thiếu Dương. Ngôi Tứ Tượng lại biến thành Bát Quái là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài và từ đó hóa hóa sinh sinh mà tạo thành muôn loài vạn vật.
B.- Nhân sinh quan :
Loài người là một trong số ức vạn chúng sinh. H́nh thể con người là phản ảnh trong một phạm vi nhỏ bé của Vũ trụ. Trong thân người có Tam bửu và Ngũ quan. C̣n ở ngoài Vũ trụ th́ có Tam quan và Ngũ hành, con người phải vận động ăn nhịp với Vũ trụ mới có thể trường tồn được. có câu : " Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong ". Nghĩa là : thuận theo Trời th́ c̣n, nghịch với Trời th́ chết. Trời đây ám chỉ định luật thiên nhiên của Vũ trụ. Mục đích của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ về phương diện nhân sinh quan là giáo ngộ người đời hiểu rỏ lư nhiệm màu ấy để đời sống được yên vui và sớm được trở về Chân như bản tính là d3iều kiện tối cần cho cơ siêu thoát. Con người trước ngày xuất thế, đối với xă hội dù ở địa vị nào, phải làm tṛn bổn phận. Ấy là nhân đạo. Làm tṛn Nhân đạo rồi mới mong bước qua Thiên đạo là cơ siêu phàm nhập thánh. Để chứng tỏ rằng Nhân đạo là khoảng đầu con đường tiến hóa của cá nhân, Đức Cao Đài có dạy rằng : " Các con coi trên Thiên Đ́nh có vị Tiên, vị Phật nào mà thiếu trung thiếu hiếu bao giờ ? " Lại có câu : " Dục tu Thiên đạo, Tiên tu Nhân đạo. Nhân đạo bất thành, Thiên đạo viển hỉ ".
VI.- HộI THÁNH CỦA Đ[1]I Đ[1]O TAM KỲ PHỔ Độ
Ngay từ năm 1926 Đức Ngọc Đế và Lư Đại Tiên có giáng cơ ấn định sự tổ chức Hội Thánh như sau :
A) Phần Xác :
Phần xác của Đạo Trời tức là Hội thánh Cửu trùng Đài gồm có 9 phẩm là :
1.- Giáo tông (1 vị)
2.- Chưởng pháp (3 vị) thuộc 3 phái Thái, Thượng, Ngọc
3.- Đầu sư (3 vị) thuộc 3 phái Thái, Thượng, Ngọc
4.- Phối sư (36 vị) chia làm 3 phái, mổi phái 12 vị
 5.- Giáo sư (72 vị) chia làm 3 phái, mổi phái 24 vị
 6.- Giáo hữu (3000 vị) chia làm 3 phái, mổi phái 1000 vị
 7.- Lễ sanh, vô số định, liệt vào 3 phái
 8.- Chư chức việc : Chánh, phó Trị-sự và Thông sự
 9.- Nhân sanh : toàn thể đạo hữu. Chư chức sắc Cửu trùng đài, tùng lịnh vị Giáo tông chấp chưởng quyền cai trị các cơ quan đạo và truyền giáo ở trong nước và ngoại bang. Ngoài chư chức sắc Cửu trùng đài lại có Hội thánh ngoại giao hiện đặt tại Ṭa Thánh Tây Ninh để trong nôm cơ quan truyền giáo ở nước ngoài.
B) Phần hồn : Phần hồn của Đạo Trời tức là Hội Thánh Hiệp thiên đài gồm có :
 1.- Hộ pháp (1 vị) hay về Pháp
 2.- Thượng phẩm (1 vị) hay về Đạo
 3.- Thượng sanh (1 vị) hay về Thế.
 Dưới quyền Đức Hộ pháp th́ có 4 vị Thời quân là :
a) Tiếp pháp b) Khai pháp
c) Hiến pháp d) Bảo pháp
 
 Dưới quyền Đức Thượng phẩm th́ có 4 vị Thời quân là :
a) Tiếp đạo b) Khai đạo
c) Hiến đạo d) Bảo đạo
 Dưới quyền Đức Thượng sanh th́ có 4 vị Thời quân là :
a) Tiếp thế b) Khai thế
c) Hiến thế d) Bảo thế
 
 Chư chức sắc, chức việc hội thánh Hiệp thiên đài đều đặt dưới quyền Đức Hộ Pháp. Hội Thánh Hiệp thiên đài giữ quyền tư pháp và trong nôm sự ban hành các luật đạo cho đúng Chơn truyền. Lúc sau này v́ cơ Đạo bành trướng mỗi ngày một rộng, Đức Hộ Pháp phải
 dùng quyền riêng của Ngài mà lập nên cơ quan Phước Thiện và cơ
 quan Phổ Tế. Hai cơ quan này không có ấn định trong Pháp Chánh
 Truyền là Hiến Pháp của Đạo buổi đầu.
VII.- MộT ÍT LU
T Đ[1]O VỀ PHƯƠNG DIN TU HÀNH THEO Đ[1]O CAO ĐÀI

( TAM KỲ PHỔ Độ )
A) Đạo Hữu thường :
 Bất luận nam hay nử, già hay trẻ, mổi cá nhân sau khi đă nhập môn cầu đạo rồi phải lập thệ trước thiên bàn nguyện tŕ trai thử giới tùy sức ḿnh như sau :
 Lục trai.- Tŕ trai trong sáu ngày mỗi tháng : 1, 8, 14, 15, 23, 30.
Thập trai.- Tŕ trai trong 10 ngày mỗi tháng : 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30.
Tháng thiếu th́ thụ trai ngày 27 thế cho ngày 28. Theo lịnh Ơn trên, chỉ những vị thụ thập trai mới thụ pháp được. Thường trai.- Bậc này thụ trai hằng ngày. Người trai dù cho trường trai đi nữa chưa phải là đủ điều kiện để đắc đạo. Thụ trai là phương pháp kiềm chế thất t́nh lục dục trau sửa thân tâm cho tinh khiết, tránh các tội lỗi để đi đến Đạo. Nếu trai miệng
 mà không trai ḷng th́ chỉ làm việc uổng công mà thôi. Ngũ giới cấm.- Người đă nhập môn và tŕ trai thủ giới được liệt vào hàng đạo hữu. Ngũ giới cấm nghĩa là năm điều cấm như sau :
 1) Nhất bất sát sanh : một là không làm hại sự sống của nhân loại và thú cầm thảo mộc.
 2) Nh́ bất du đạo : hai là không phóng đăng trộm cướp.
 3) Tam bất tửu nhục : nghĩa không ăn thịt uống rượu say sưa để mất trí khôn và làm việc tội lổi.
 4) Tứ bất tà dâm : bốn không lấy vợ của người hoặc con cái của người một cách thầm vụng.
 5) Ngũ bất vọng ngữ : Năm là không nói dối để gạt người lấy của và hại mạng người.
 
 LỄ BÁI : Mổi ngày có bốn buổi lễ là : Tư thời (11 giờ đêm đến 1 giờ khuya), Ngọ thời (11 giờ đến 1 giờ trưa), Mẹo thời (5 giờ đến 7 giờ sáng), Dậu thời (5 giờ đến 7 giờ tối). Phải lựa thời nào hợp với ḿnh để lễ bái, tŕ kinh, sám hối. Sự lễ bái, tŕ kinh không phải cốt để kể công với chư Tiên, chư Phật mà đó là phương pháp thâu phóng tâm của ḿnh ; là v́ nếu tâm c̣n phóng th́ không khi nào tŕ kinh mà không nhầm lẩn được.
Ngày nào người tu tụng kinh, miệng đọc ḷng trống, không cần trông vào sách mà không lầm lẩn th́ tâm đă tịnh rồi. Lại nữa, đọc kinh hiểu ư nghĩa và làm theo là một điều rất quư. Bởi thế
lễ bái, tŕ kinh là phương thức gội rửa linh hồn. Mỗi ngày xác thịt phải ăn mới sống th́ linh hồn cũng cần ăn để tiến hóa. Món ăn của tinh thần là sự tŕ kinh lể bái và sám hối tội lổi. Sau
 khi tŕ kinh một cách chín chắn, con người tự thấy vui tươi thư thái.
Nhờ sự tŕ kinh sám hối mà các tư tưởng xấu xa và phiền nảo đều tiêu ma. Nếu người tu giữ như vậy một cách đều đều th́ trong một thời gian sẽ thấy tâm an thần định lúc nào cũng vô tư, vô lự mà nh́n cuộc đời với sự điềm tỉnh tự nhiên. Người tu nên trông cậy ở nơi ḿnh hơn là ỷ lại ở các đấng thiêng liêng, là v́ "Thiên địa vô tư" không lẽ v́ ḿnh cầu khấn, lễ bái hằng ngày mà giáng phước cho ḿnh, nếu hằng ngày ḿnh tạo thêm ác nghiệp.
B) Chư Chức sắc :
 Bắt đầu từ Lễ sanh trở lên chư vị thọ Thiên ân đều được kể là chức sắc hay là Thiên phong là v́ : sau khi được Hội Nhơn sanh và Hội Thánh chiếu theo công nghiệp và đức hạnh của đương sự mà cho thăng lên một phẩm vị nào th́ những hồ sơ đều phải dâng lên Thượng hội cầu Đức Lư Thái Bạch chấp chưởng quyền giáo Tông vô vi, giáng đàn thừa lệnh Đức Ngọc Đế quyết định một lần cuối cùng.
 Lễ sanh phải giữ thập trai ; nếu trường trai được th́ càng hay. Trái lại từ Giáo hữu trở lên chư vị Thiên Phong phải phế trần hành đạo, nghĩa là : phải hiến thân trọn đời cho Hội thánh, thừa lệnh Hội thánh đi truyền giáo và chấp chưởng cơ quan đạo các nơi.
Từ Phối sư trở lên, chư chức sắc được liệt vào hạng Đại thiên Phong và chỉ ở tại Ṭa Thánh mà thôi. Trong một vài trường hợp đặc biệt, một chức sắc có thể được Hội Thánh cho ra giúp đời một thời gian và được giữ thập trai để dể bề hành sự.
C) Bậc Tối Thượng Nhứt Thừa :
Tức là hàng chức sắc hoặc đạo hữu, công viên quả mản, hoặc ở kiếp này hoặc ở kiếp trước, nghĩa là không c̣n bị thê thằng tử phược, oan trái buộc ràng, th́ được các đấng thiêng liêng cho vào tịnh thất luyện kim đơn hầu được siêu phàm, thoát tục. Ấy là hạng xuất thế, không thiết chi đến việc đời nữa. Hạng này rất ít. Khi mới mở Đạo Đức Cao Đài có cho biết rằng : " Khoa tịnh luyện dỉ nhiên phải có nhưng đó là việc sau. Ngay buổi đầu, Ngài đă có lần ngăn nhiều vị muốn đi tịnh và dạy rằng : " Thanh nhàn chưa phải buổi xem mai ". Ngài khuyên tất cả chư môn đệ của Ngài lo lập công bồi đức. Một khi công đầy quả đủ Ngài sẽ chỉ cho một câu cũng đủ thành đạo.
Một vị chơn tu thuộc phái Tiên Thiên đă dầy công sưu tầm chơn kinh và đang nhập tịnh tu đơn th́ tiếp được một bài thơ của các đấng thiêng liêng dạy phải ngưng việc ấy lại để ra giúp đời. Bài thi ấy như vầy :

 

Quân tử sao an một chữ nhàn ?
Nhàn sao nước mất với nhà tan ?
Tan tành ra sức dày công đắp
Đắp điếm cho ra cuộc trị an.

 

Tiếp được bài thơ ấy vị nói trên liền xuất tịnh và mấy năm nay tận tâm lo phổ độ chúng sanh. Đă lắm lần v́ đời, v́ đạo, vị ấy đă phải vào sanh ra tử, thọ khổn chốn thiên lao.
Tuy vậy cũng có một vài trường hợp đặc biệt. Ấy là trường hợp của ông Ngô Văn Chiêu, đệ tử thứ nhất của Đức Cao Đài. Ngay buổi đầu ông Ngô Văn Chiêu được thọ chơn truyền và được ở yên một nơi để luyện kim đơn.
VIII.- Đ[1]O KHAI, Đ[1]O BẾ LÀ SAO ?
 Muốn giải rỏ trong trường hợp nào Đạo khai và trong trường hợp nào Đạo bế chúng tôi xin mượn tỷ dụ sau đây :
Ở một nơi kia có một ḍng nước trong xanh, ngày đêm cứ ro re chảy, chảy mải không ngừng. Nguồn nước ấy không biết phát khởi từ hồi đời nào và không biết phát tích ở nơi đâu. Ḍng nước ấy bị cỏ cây bao phủ, người thường không ai để ư đến hoặc không biết. Một ngày kia có một cụ già cầm cái gậy gỗ đến vạch đám cỏ cây ấy. Ḍng nước bèn hiệnn ra trước mắt mọi người. Ai nấy đều múc nước ấy uống và nhận thấy thân tâm mát mẻ khỏe khoắn. Ḍng nước ấy là Đạo. Cụ già ấy là một Giáo chủ của một tôn giáo. Ấy là thời kỳ Đạo khai.
Đặng mấy mươi năm cụ già ấy qui vị. Đoàn hậu tấn kế chí cụ lâu ngày quên hẳn những lời cụ chỉ dạy và không sửa sang ḍng nước kia nữa. Bởi thế cây cỏ lại nổi lên bao phủ ḍng nước ấy và  trong một thời gian khá lâu không c̣n ai trông thấy nó nữa. Ấy là thời kỳ Đạo bế. Măi đến một ngày nào đó có một cụ khác đến.
Chuyến náy cụ không dùng gậy gỗ mà dùng mai, cuốc bằng sắt đến phát cây nhổ cỏ để cho ḍng lưu thủy kia lại hiện ra và nhân loại lại được uống nước suối ấy. Ấy là Đạo bế rồi lại khai. Như vậy trong một thời gian cụ già thứ nh́ lại khuất bóng và với cụ nguồn suối kia lại ẩn dạng lần thứ nh́. Ấy là Đạo khai rồi lại bế, và cứ như thế mà tiếp diển măi, vô cùng tận...
tỷ dụ ấy cho ta thấy 2 điều : dù được khai hay bị bế Đạo vẩn là Đạo. Đạo vẫn luôn luôn tồn tại và vận chuyển không ngừng trong càn khôn vũ trụ, bất chấp thời gian.
Vậy nói Đạo khai hay là Đạo bế là chúng ta đứng về phương diện nhân loại mà nói. Đạo khai là khi nhân loại gặp đặng chơn sư sáng suốt chỉ cho ngộ Đạo. Đạo bế là khi vị hướng dẩn ấy không c̣n t́m đâu thấy nữa và chơn truyền không c̣n nguyên vẹn nữa. Thời kỳ Đạo khai tỹ như ban ngày, nhân loại thấy đường mà đi ít khi bị sa ngă. Nhờ vậy nhiều vị thành chánh quả. thời kỳ Đạo bế tỹ như ban đêm. Nhân loại bị hăm trong cảnh hổn loạn tối tăm và lầm lạc trong đường tội lổi. Cũng v́ vậy cho nên ít người được tṛn quả phúc. Hay là, xưa cũng như nay, Đạo không dời không đổi. Có thay đổi hay chăng là phương pháp hữu h́nh dùng để khai Đạo hay là tôn giáo mà thôi, và phương pháp này đă được tùy thời áp dụng. Nói một cách khác bên trong Đạo vẩn là một, mà bên ngoài tôn giáo là h́nh thức th́ vô ngần. Cho nên, cố chấp những
 h́nh thức bên ngoài rồi cho rằng : " đây chánh đó tà ", là không thông Đạo vậy. Ngày nào các nhà tu hành hiểu đặng lẽ ấy th́ các bệnh kiêu hănh, tự đắc, làm ngưng trệ bước đường tiến hóa của người tu sẽ mất và những sự xung đột, những trận giặc tôn giáo có lẽ không sao nảy sanh được nữa.
IX.- MụC ĐÍCH CỦA Đ[1]O CAO ĐÀI
Mục đích tối cao của Đạo Cao Đài là chỉ rỏ cho người đời, bất luận màu da sắc tóc, những phương pháp để đưa cá nhân đến chổ yên vui chân thật hoặc ở đời này, hoặc ở cảnh siêu h́nh.
A) Ở đời này Về khoảng này Đạo Cao Đài cố gắng cải thiện những điều kiện tối cần cho sự tiến hóa cá nhân bằng sự mở mang, Dân Đức, Dân Trí, Dân Sanh.
1. Mở mang Dân Đức Các kinh sách của các đấng thiêng liêng ban cho người đời sẽ chỉ rơ một cách tận tường cho đời đâu là lành, đâu là dữ : cá nhân phải làm thế nào để tránh những phiền năo, nghiệp chướng hầu tạo một đời yên vui, vừa cho ḿnh vừa cho kẻ khác. Dân Đức là bên trong, là căn bản của cá nhân. Nếu đức không có th́ dù tài cao đến đâu con người cũng không làm chủ lấy ḿnh được và sẽ gây tai hại cho đồng bào và nhân loại vậy. Là v́, nếu cá nhân loạn th́ gia đ́nh loạn, gia đ́nh loạn th́ xả hội loạn. Ấy là lẽ cố nhiên.
2. Mở mang Dân Trí Về phương diện này tiếp xúc với nhà cầm quyền đời Hội thánh sẽ mở nhiều học đường giảng dậy các khoa cần thiết cho sự mở mang Dân Trí. Hiện nay tại Ṭa Thánh Tây Ninh đă có mở nhiều trường sơ cấp : số học sinh theo học ngót vạn trẻ, và đang trù tính mở các lớp Trung học. Một trường bách nghệ đă được lập lên trong phạm vi Ṭa Thánh.
3. Mở mang Dân Sanh Ngay lúc đầu, biết trước ngày sau nhân sinh sẽ khổ về vấn đề này, các đấng thiêng liêng dạy Hội Thánh phải t́m phương khuếch trương các ngành sinh hoạt của nhân sanh như : Canh nông, Kỹ nghệ và Thương mại để cho mỗi người có công ăn việc làm, nhiên hậu mới vững tâm mà tu hành. Có câu : " Có thực mới giựt được đạo ". Hiện nay về phương diện Dân sanh, Hội thánh đang khuyến khích chư đạo hữu mở mang các ngành Canh nông, Kỹ nghệ và cả cơ quan từ thiện như : Cấp tế viện, Dưỡng đường v.v.... dưỡng lăo viện, các đồn điền ở nhiều nơi.
B) Ở cảnh siêu h́nh :
Mợt khi công đầy, quả đủ, một số Đạo hũu hoặc chức sắc sẽ được Hội thánh cấp dưỡng và cho phép về tịnh dưỡng ở một nơi thanh nhàn, u tịch, để tu tâm luyện tánh hầu ngày kia được thoát tục siêu phàm.
X.- Đ[1]I Đ[1]O TAM KỲ PHỔ Độ VỪA LÀ MộT TÔN GIÁO TỔNG HợP VỪA LÀ MộT TÂN TÔN GIÁO
 Đ[1]I Đ[1]O TAM KỲ PHỔ Độ vừa là một tôn giáo tổng hợp vừa là một tân tôn giáo. Nói thế không phải tôn giáo này chỉ thâu tất cả chi tiết của các tôn giáo khác mà không có một sự lựa chọn nào. Sau khi quan sát các nghi tiết của tôn giáo này th́ người ta nhận thấy rằng : " Về nghi tiết th́ có phần cũ thuộc tứ giáo :
 NHO, THÍCH, Đ[1]O và GIA TÔ; có phần mới riêng biệt của tôn giáo nầy.
A) Phần tương tự của các tôn giáo nói trên :
 1. Về phần Thích giáo : Chuông, trống, lể cầu siêu, trai giới.
 2. Về phần Lăo giáo : Lể dâng hoa, trà, rượu tượng trưng cho Tam Bửu của Tiên gia ( Tinh, khí, Thần ). Trên thiên bàn có Thái cực đăng tượng trưng ngôi Thái cực. Lưỡng Nghi đăng tượng trưng ngôi Lưỡng Nghi là Âm Dương.
 3. Về phần Cơ đốc giáo : Cách lấy dấu Ba Ngôi sửa lại Phật, Pháp, Tăng.
 Cách kiến trúc các thánh thất tương tự như các nhà thờ của Cơ Đốc hay nói cho đúng là Thiên Chúa giáo, sự giải oan, tắm thánh : về phần này có kinh riêng.
B) Phần riêng biệt :
Sự thờ Thiên Nhăn, sự lập Pháp chánh truyền ấn định sự tổ chức Hội Thánh và sử dụng Thiên phục ba màu xanh, đỏ, vàng gọi Tam
 thanh; Lễ sĩ khi hiến lễ th́ đi chữ tâm ; chuông trống khi có đại đàn th́ đánh Ngọc hoàng sấm : không đốt vàng mà lễ phẩm dâng
 cúng không phải đồ nấu như vôi, thịt sống hoặc chín : sự áp dụng kinh sách mới như kinh cầu siêu và Di Lặc Tân kinh thế cho các kinh Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan; Kinh xưng tụng công đức Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu. Ngôi Diêu Tŕ Kim Mẫu th́ được thờ riêng ở một nơi được gọi là đền Phật Mẫu nơi ấy cũng gọi là Báo ân từ. Tại đền ấy ngôi giữa đền thờ Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và cửu vị Tiên nương, tại tả hữu lưỡng ban thờ vong linh chư chức sắc nam và nữ. Mỗi năm đến ngày rằm tháng tám, ngày vía Đức Kim Mẫu, tại Toà Thánh Tây Ninh có mở hội rất lớn. Trong khi hành lễ chư Đại Tiên phong, chư chức sắc, chức việc cùng toàn thể nam nữ Đạo hữu đồng ăn mặc như nhau bạch y, hắc cân ; để tỏ rằng : trước mặt M CHUNG các con đồng một thể ; nhứt là về phương diện thể chất. Đó là ư nghĩa sâu xa của tinh thần b́nh đẳng về phương vô vi. Cách ăn mặc như thế tỏ rằng dầu cho Thiên Phong hay Đạo Hữu, h́nh hài đều do một chất nhuyên thủy là " Hư vô chi khí " mà ra và ai cũng như ai. Trong buổi lể ấy giữa anh lớn em nhỏ đều có sự thân mật làm cho mọi người quên sự phân chia đẳng cấp căn cứ áo măo và chức tước. Ấy là chước khéo mà các đấng thiêng liêng dùng để gián tiếp khuyên chư chức sắc, chức việc chớ nên coi ḿnh quá cao, v́ sau khi tuyệt khí, thể chất h́nh này phải trả lại cho đất để trở về với khí Hư vô và trong trường hợp ấy ai cũng như ai. Điễm đặc biệt nhất của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là cách kiến trúc đền thánh Tây Ninh. Đền gồm có Tam Đài là : Hiệp Thiên Đại, Cũu Trùng Đài dưới có chín cấp trên có chín móc và Bát Quái Đài. Đền Thánh này do Đức Lư Giáo Tông giáng cơ ra kiểu mẫu. Đặc sắc chót là chư đại Thiên Phong sau khi quy vị được liệm ngồi trong liên đài
 ( quan tài h́nh bát giác ).
 1. Phần triết lư.
 Mượn ở Phật giáo : Luật nhân quả ( nghiệp báo và luân hồi ); Ḷng từ bi, bác ái ; Thập nhị nhân duyên ; Tứ Diệu đế, Bát chánh đạo, khoa tham thiền nhập định.
 Mượn ở Gia Tô giáo : Ḷng bác ái, đức tin, đức khiêm nhường, đức khoan dung và sự vong kị Tổng hợp tinh hoa của tứ giáo. Nho, Thích Đạo và Gia Tô. Mượn ở Nho giáo : " Nhơn, trí, Dũng " của con người hành động nhập thế hữu vi cốt ở nơi ư thức sáng suốt. Mượn ở Đạo giáo : Tam Bửu, Ngũ Hành, Vũ Trụ quan, phép tu đơn. Mượn của Phật giáo : Luật nhân quả ( Nghiệp báo và luân hồi ); Ḷng từ bi, bác ái ; Thập nhị nhân duyên ; Tứ diệu đế ; Bát chánh đạo ; Khoa tham thiền nhập đinh. Mượn ở Gia Tô giáo : Ḷng bác ái, đức tin, đức khiêm nhường, đức khoan dung và sự vong kỷ vị tha.
2. Phần riêng biệt. Nh́n nhận Đấng chúa tể Càn Không là vô h́nh nghĩa là Ngài không giống cái chi ở phàm trần nầy.Tượng Thiên Nhăn thờ trên Thiên Bàn chẳng qua là biểu hiệu hữu h́nh để giúp chư môn đệ tu đơn luyện thân và hiệp Tam Bửu. Đối với Đạo hữu sự thờ Thiên Nhăn giúp sự tu thân mỗi khi lễ bái Về các đấng thiêng liêng : như chư Tiên, chư Phật. Đức Cao Đài có minh rằng " Nếu không có Hư vô, chi khí th́ không có chi trong Càn Không Vũ Trụ. C̣n Chư Tiên, Chư Phật Thầy hỏi các con ai tạo ra các đấng ấy ? " Rồi Ngài tự trả lời : " Ấy là Đạo ". Đại để Đức Cao Đài là Đức Thái Cực Thượng Đế hay là Ngôi Thái Cực. Ngôi ấy bao trùm Vũ Trụ và không bao giờ mượn xác phàm . Trái lại Chư Tiên, Chư Phật th́ phải luân hồi làm người thế gian nhiều kiếp rồi nhờ phép luyện Đạo mà chứng quả Tiên, Phật. Đă mượn xác phàm th́ muôn ngh́n kiếp trước chư Tiên, chư Phật, điều ở trong hàng chúng sanh và đă chịu đức hóa đục của Ngôi Thái Cực.

 

XI.- TỔNG LUẬN

 Nước Việt Nam ta từ khi khai quốc dến nay chưa hân hạnh có một Đạo nào vi bản. Tuy vậy trải mấy ngh́n năm lịch sử, về phương diện tín ngưỡng, người Việt ta lúc nào cũng tôn kính Trời Phật và có một thái độ khoan dung lạ thường. Bằng chứng là : Người Việt ta lúc nào cũng sẵng sàng tiếp đón và tận tâm thờ phụng các Tôn giáo do bên ngoài đưa vào. Giữa lúc năm châu lần lượt thiên về vật chất, tinh thần ấy của người Việt từ trước dến năm 1926 vẫn giữ được nguyên vẹn và đă được Đức Thượng Đế chứng giám !
V́ luật công b́nh thiêng liêng Ngài mới hạ lịnh mở Đạo tại nước Việt Nam, tổng hợp giáo lư các Đạo. Ngay buổi đầu Đức Thượng Đế có dạy rằng :

 

Từ thuở nước Nam chẳng Đạo nhà,

Nay ta gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả,
Rằng trẻ noi theo biến hóa già.
 
 Ngài lại thêm rằng :
Phụng gáy non Nam Đạo trổ ṃi,
Trổ ṃi nhân, vật bốn phương trời,
Trời Âu biển Á chờ thay sắc,
Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi.
 
 Đối với các tôn giáo khác Ngài cho biết rằng :
Trên trời làm chủ một ḿnh ta,
Nhánh nhóc chia ba cũng một già,
Phải mượn nhiều ngôi mà giáo đạo,
Xét coi cho kỹ có ai mà !

 

 Vâng theo lời dạy ấy môn đệ của Đức Thượng Đế Cao Đài có bổn phận phải coi người thuộc các tôn giáo khác như anh em cùng chung một gốc mà ra là Đức Thượng Đế. Vâng theo lời khuyến nhủ của Đức Cao Đài các môn đệ của Ngài không nên phân biệt mầu da sắc tóc mổi khi làm điều thiện hoặc phổ độ một cá nhân nào ! Ở cơi ta bà này người đời hay phân biệt ta, người v́ ranh giới và mầu da sắc tóc hoặc chia chi lập phái v́ tư tưởng. Nhưng đối với các đấng thiêng liêng th́ ranh giới, mầu da sắc tóc không c̣n ư nghĩa. Một vị Phật ở Á có thể chuyển sang giúp các dân tộc ở Âu.
 Trái lại, một vị Thánh ở Tây phương có thể đặng lệnh sang giúp dân chúng ở Đông phương. Bài thơ sau đây tiếp được năm 1926 tại Cần Thơ do Đức Thánh Saint Pierre ban cho chứng tỏ việc ấy.

 

Thiên đ́nh chịu giữ một phương Tây,
Cả đạo Gia-Tô rơ mặt thầy,
Giúp chúng đă gần hai ngàn tuổi,
Cao Đài sắc lệnh dắt d́u bây.

 

 Như vậy, trên Thiên bàn bên cạnh linh vị Đức Thích Ca có linh vị các đấng như Đức Lăo Tử, Đức Khổng Tử và Đức Gia Tô là một điều không nên làm cho người đời lạ mắt.
 
(Tài liệu của HU LƯƠNG năm 1930 - Cao Đài Giáo).
 
 Dưới đây là phần "Thi Văn dạy đạo" :
I.- VŨ TRỤ LUẬN

 

- THI -
Cao xanh ḍm thấy cuộc đời xiêu,
Đài ngọc ĺa ngôi xuống dắt d́u.
Thượng giới vĩnh tồn nhàn lạc đạo,
Đế quân cứu thế buổi thời tiêu.

 

Thầy các con Thầy mừng các con :
 Buổi đời Bá Đạo cạnh tranh xúm cấu xé giựt giành đưa nhau trong trường đời mộng ảo, nhơn t́nh sôi nổi, thế sự đổi thay biết bao nhiêu nông nổi trong cuộc đời. Thầy không nở ngơ tai cho đành dạ.

 

- THI -
 
Nhơn t́nh sôi nổi lắm chua cay,
Ḍm thấy phố ương nhíu mặt mày,
Hoàn cảnh nguy nàn lôi cuốn măi,
Tai Trời chung chịu đổi dời thay.
 
 Sao kêu vũ trụ các con biết chăng ?

 

 Khắp cả Càn-Khôn Thế Giới là Vũ ; cùng chổ Vũ kêu là Trụ. Vũ nghĩa là trùm cả bốn phương và trên với dưới. Trụ cũng có nghĩa là xưa qua nay lại ; nên trong chữ Vũ Trụ nó gồm các nghĩa cả không gian và thời gian.
Trước khi chưa định ngôi Thái Cực th́ trong không gian ấy c̣n đường mịt mịt mờ mờ với khí Hồng Mông v́ đó là c̣n trong thời kỳ hỗn nguyên vậy.
Không gian ấy tức là Vô Cực. Trong Vô Cực ấy lại có một cái nguyên lư thiên nhiên tuyệt diệu, tuyệt huyền rồi lại có thêm một cái nguyên khí tự nhiên nữa. Lư với Khí ấy tức là Âm và Dương trong buổi Hồng Nguyên thời đại. Lư Khí ấy lại lần lần ngưng kết với nhau mà đông tụ lâi đời nhiều kiếp mới tụ thành một khối tinh quang rất đũ đầy các sự tốt đẹp. Chừng đúng ngày giờ khối ấy mới nổ tung ra một tiếng vang lừng, dữ dội phi thường làm cho rung động cả không gian ; bèn có một điểm linh quang tự trong tiếng nổ ấy văng ra và lăn lộn quây quần giửa chốn không trung giăng tủa hào quang rất chiếu diệu, rạng ngời,
 trùng trùng điệp điệp, rực rỡ chói ḷa khắp cả mọi nơi. Ấy chính là ngôi chúa tể của càn khôn vũ trụ đă biến hóa ra vậy. Mà vũ trụ từ đấy mới bắt đầu có ngôi Thái Cực, trọn lành, trọn tốt, toàn trị, toàn năng, thiên biến, vạn hóa, vô tận, vô cùng, nắm trọn quyền hành, thống chưởng cả Càn Khôn Vũ Trụ và lấ cơ thể âm dương mà phân thanh biện trược, làm máy độnh tịnh để gồm tụ các Hư vô đặng hóa sanh muôn loài vạn vật.
Máy âm dương ấy cứ vần vần xây chuyển, không ngừng nghĩ một giờ khắc nào mà dưởng dục chúng sanh bảo tồn Thiên Địa. Khắp trong Vũ Trụ biết bao là quả linh cầu ; có quả trược quả thanh, có bực cao bực thấp, có cái sáng cái tối, thảy thảy đều tuân theo máy thiên cơ mà tuần tự chuyển luân xoay chạy, cái lại cái qua, cái lên cái xuống, không bao giờ ngừng nghĩ đặng. Linh cầu nào cao thanh, khinh phù th́ vượt qua mấy cỏi khác mà lên cao ngất trên thượng tầng không khí. Vậy quả địa cầu của các con đây tuy là một cầu vật chất hữu h́nh trọng trược song cũng c̣n thuộc về bậc khá ; chớ dưới nữa lại c̣n lắm quả địa cầu c̣n trọng trược hơn nữa. Nhưng quả địa cầu như thế th́ nó nặng trầm ch́m tột dưới đáy sâu của Vũ Trụ nên rất tối tăm, mù mịt, âm khí nặng nề, thảm sầu buồn bả, gớm ghê để đày đọa các linh hồn nào bị phạm tội ở thế gian xuống đó.
Những cỏi ấy mà linh hồn nào phải rủi ro bị đọa lạc vào th́ càng ngày càng thêm mê muội, tối tăm măi măi. Ôi ! Khốn khổ biết bao ! Thầy khó tả ra cho hết những sự đọa đày trải qua của các linh hồn phạm tội phải cam chịu trong mấy cỏi ấy !
Cỏi ấy là chi ? Là cơi Diêm Phù mà bên Phật đạo thường gọi là Âm ty hay miền Địa ngục.
Những cơi Diêm phù tuy là nơi các linh hồn phạm tội phải chịu khốn nguy hành phạt đến điều; thế mà đối với lũ quỷ ma th́ hồn bị đoạ ấy lại c̣n hữu phước hơn chúng nó nữa. V́ sao vậy ? V́ con người hễ khi làm mất hết chơn dương th́ tất cả phải thuần âm. Người đă thuần âm tuyệt dương là tất phải chết; mà chết như vật th́ tất phải làm ma, làm quỷ chứ không được nhập vào một thế giới nào mà an nghỉ hết, dầu thế giới ấy là nơi Diêm phù cũng vậy.
Đă không được nhập vào thế giới nào th́ lũ quỷ ma ấy chỉ phải nương dựa gió mây mà chờ ngày tiêu diệt mà thôi !!!
Và không nhập vào thế giới nào được là cũng chỉ tại chúng nó đă làm cho tiêu mất hết các phần chơn dương của chúng nó rồi ! Chớ như các linh hồn phạm tội tuy vậy chớ c̣n được chút ít chơn dương; v́ c̣n chơn dương nên c̣n nhập về cỏi Diêm Phù mà chịu h́nh phạt, được mong mơi có ngày sẽ chịu đầu thai trở lại được nữa. Bởi vậy tuy thế chịu h́nh phạt trả quả nơi Diêm Phù mà c̣n có phước hơn là làm ma quỷ. C̣n mấy cơi trên đây một chút th́ là nơi các linh hồn ít tội lỗi,

 một khi bỏ xác thịt nầy, được về đó nghĩ an một lúc, rồi chờ ngày chuyển kiếp, đầu thai. Các con hăy xem dưới đây th́ rơ :

 

- THI BÀI -
Khắp trong Vũ Trụ Càn Khôn,
Một ngôi Chúa Cả Chí Tôn nắm quyền.
Trên cai Tam Thập Lục Thiên,
Cả trong chư Phật, Thánh, Tiên phục ṭng.
Thần thông biến hoá vô cùng,
Đức ân vô tận, thỉ chung nhiệm mầu,
Dưới bầy hai quả Địa cầu,
Quản cai thưởng phạt người hầu tỉnh mê.
Thế gian cơi trược nặng nề,
Linh hồn phải chịu trăm bề gian nan !
Có chi bền bỉ vững vàng,
Quư là xác thịt c̣n tan nát liền !!!
Sao bằng mấy cơi thiêng liêng,
Linh hồn an ổn nghĩ yên đời đời.
Tránh sao khỏi cuộc đổi đời,
Người noi đạo đức cơ Trời thuận theo,
Mới mong trọn kiếp hiểm nghèo,
Ĺa trần hồn khỏi lộn mèo, thở tan !
Dựng lên cỏi tạm thế gian,
Làm trường tấn hoá cho hàng chúng sanh.
Biết lo bỏ dữ làm lành,
Chơn linh sau đặng trở thành cơi trên.
Nhưng chưa chắc hẳn vững bền,
Tái sanh lại thế đắp nền lập công.
Trải qua mấy cảnh Hư không,
Càng cao càng thấy trăng trong nhẹ nhàng.
Tùy theo công quả trần gian,
Chết rồi Trời Phật thưởng ban chỉ phần.
Thăng bằng họa phúc có cân;
Không hề sai chạy một phân đặng nào ?
Các con Thầy nhốt trong rào,
Luật công thưởng phạt mảy hào chẳng sai !
Bầu Trời Thầy nắm trong tay,
Dầu cho xa chạy cao bay ngơ nào ?
Biết phương tầm nẽo mà vào,
Cướp cơ Tạo Hoá luyện trau tinh thần,
Người c̣n một cái chơn thân,
Nên lo bồi bổ lần lần lại con !
Đừng cho tan ră hao ṃn,
Th́ ngôi vị cũ hăy c̣n y nguyên.
Luận qua bí pháp tâm truyền,
Cho đời rơ thấu Đạo huyền cao siêu.
Luyện thành huệ mạng tiêu diêu,
Muôn đời ngàn kiếp không xiên đảo mà.
Tại sao có quỷ, có ma ?
Quỷ ma trước bởi người ta tội nhiều.
Chết rồi mới hóa tinh yêu,
Không nơi nương tựa mang điều tai ương.
Thân người th́ bán âm dương,
Có trong có đục đạo thường chuyển xây.
Biết tu luyện măi đêm ngày,
Màm cho Tam Bửu đủ đầy ḥa minh.
    Trau giồi cơ thể hữu h́nh;
Cho trong sạch cái thân ḿnh đạo tâm,
Lần lần tuyệt hết phần âm,
Thuần dương th́ đâng cao thâm trở về.
C̣n người nào mắc tánh mê,
Cả đem âm khí nặng nề vào trong.
Tinh thần tiêu tán không xong,
Khí dương đả tuyệt khó mong sống đời.
Nên chi hồn xác ră rời,
Tại chưng làm mất khí trời, muội hôn.
Âm thần thành quỷ âm hồn,
Thành ma khuấy phá làm khôn với đời.
Dựa vào đồng cốt gạt chơi,
Xưng cô, xưng cậu, dối đời kiếm ăn.
Độc hung bắt buộc lăng xăng,
Những người mê tín nghe xằng th́ tin.
Chọc người, ghẹo chúng sợ kinh,
Nương theo mây gió ẩn ḿnh, lánh tai.
Sao mà chẳng chịu đầu thai ?
Đầu thai sao đặng, Như Lai mất rồi !!!
Ngặt v́ không có một ngôi,
Biết đâu trú ngụ qua hồi tai ương !!!
Tại làm mất điểm chơn dương;
Thành ra phải chịu trăm đường chông gai !
 THẦY ban ơn cho các con.
                                      THẦY THĂNG

 

( Trích trong quyển Đại Thừa chơn giáo số 408 )
II.- THẦY L
P CAO ĐÀI Đ[1]O NHƯ THẾ NÀO ?

Thầy thấy cuộc đời biến đổi, thời khí bất ḥa nhơn tâm xu hướng về vật chất, bỏ mất tinh thần, nên phạm vào đường tội lỗi, thiệt là đời lầm lũi măi mà không định hồn tự hối, xúm lấn chen lặn lội, tranh giành tục lụy mà thay đổi chí cao minh.
 Ba nền chánh giáo Nho, Thích, Đạo đă nghiêng chính, nhơn loại thảy chuộng hữu h́nh không cần vô vi thâm viễn !
Nay đă đến thời kỳ cuộc tuần hườn giáp mối nên Đạo trời vận chuyển phổ hoá sanh linh.
Tam giáo xưa kia lập Đạo lúc ban sơ truyền bá cơ diệu lư quang minh bắt đầu từ chỗ vô vi khẩu thọ tâm truyền lần lần xuống th́ trở ra hữu h́nh mà đạo mầu thất chánh, tâm pháp lạc sai ; ấy là cơ Đạo đến thời kỳ cuối cùng của Tam giáo thất chơn truyền diệu pháp.
C̣n Đạo THẦY lại trái hẳn với Tam giáo là bắt đầu truyền Đạo th́ đúng hữu h́nh lấy sắc tướng âm thinh mà độ đời một cách lẹ làng mau chóng. Vả lại Đạo Thầy bắt đầu do chổ hữu h́nh mà truyền bá rồi lần lần mới dẹp hết chổ hữu h́nh mà đi đến vô vi là cơ siêu phàm nhập thánh ? Vậy thà trước dụng cơ hữu h́nh để phổ hóa cho cơ Đạo dể lưu thông rồi cứ đó mà dắt dẩn cho nó tấn hóa măi trên con đường cao thượng riết đến chổ hư không tức là vô vi th́ Đạo pháp mới phát minh cơ diệu lư tuệ tâm ứng lộ ; thế là Đạo Thầy không hư hoại đặng là nhờ ở chổ vô h́nh đi lên riết đến tận vô vi. C̣n Tam giáo xưa lại từ vô vi mà lần sa sụt xuống hữu h́nh mới thành Đạo bế, rồi sai lầm ra ngoại giáo hàng môn !
 
 Mà thầy lập Giáo kỳ này lại khác hẳn nền cổ Đạo. Thầy chỉ dùng
 cái huyền cơ bí pháp mà truyền Đạo trong dân gian. Thầy đem chơn
 pháp diệu huyền trao cho người luyện thành chánh giác th́ phản
 bổn hườn nguyên. Thầy dùng huyền diệu cơ bút để hoằng khai cơ
 quan Vô-vi Đại-Đạo. Thầy nhất định không giao Thánh Giáo cho tay phàm nửa, v́ trước kia Tam Giáo thất chơn truyền là cũng bởi Thánh Giáo ở tay phàm, nên các con canh cải làm sai lạc pháp linh. Vậy Thiên Thơ Thầy Định ngày nay Thầy lập Giáo như vầy.
1) Trên là dùng huyền diệu thiêng liêng mà bảo tồn cơ Đạo.
2) Dưới để tự Thầy định mới có thể chuyển hóa nổi nhân tâm, đủ sức thần thông vận hạnh chơn giáo ; chớ nếu Thầy mà mượn xác thịt nặng nề th́ làm sao biến hóa thiên h́nh vạn trạng mà phổ độ chúng sanh cho mau chóng, nổi sôi, rần rộ được.
 Chớ dùng huyền cơ bí pháp tất có thể lưu thông trong nháy mắt khắp mọi nơi. Nhưng Thầy cũng phải chịu giáng thế mượn xác phàm
 Ngô-Minh-Chiêu đặng Thầy đem các chơn pháp tâm truyền mà trao lại cho các con để các con giữ ǵn hầu có trao lại cho người thiện căn hữu phước. Thầy lại luyện cho các con thấy cái pháp bí diệu đó đặng rơ cớ mầu nhiệm siêu phàm, tạo thánh thai để cho linh hồn nương đó mới trở về cỏi hư vô hiệp với Thầy là nơi an nhàn khoái lạc. Xong rồi Thầy lại trở về dùng huyền pháp thiêng liêng mà chuyển hóa chúng sanh tuyên truyền chánh đạo. Tại sao Thầy đă nói : Không giao Chánh Đạo cho tay phàm và không xuất thế mượn xác phàm như Tam Giáo mà rốt cuộc Thầy cũng có xuất thế, cũng có trao chơn pháp cho các con ? Thầy giảng cho các con rỏ :
 Nguyên Tam giáo ngày nay đă thất kỳ truyền tôn chỉ lạc sai, cơ quan siêu đổ cho nên tu th́ nhiều mà không ai thành chánh quả, vậy nên nay Thầy phải giáng thế mượn xác phàm đặng đem cái tâm pháp bí truyền ấy trao dạy cho chúng sanh để thoát ṿng sanh tử. Nếu không xác phàm mới làm sao mà trao cái bí pháp đặng cho các con ? Hể bí pháp th́ khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương thọ ; không được thố lộ ra cho ai hay biết đặng hoặc tỏ vẽ trên giấy mực hay là dùng cơ bút mà truyền bí pháp đặng. Cơ bút là để nắm quyền hành Đạo giáo mà phổ hóa chúng sanh, để làm ngọn đuốc quang minh mà dẩn dắt người đến chổ bản nguyên là cùng mục đích đó thôi. Ấy nghĩa là Thầy dùng cơ bút mà truyền Đạo đức tinh thần và huấn nghệ vạn linh cho trở nên hạng người chí đức cao siêu, Tiên Thánh, Phật vậy.
Các con phải biết, các con tuy thọ pháp mặc dầu, chớ cũng phải chịu dưới quyền lực thiêng liêng sai khiến. Các con nào có đối đặng Thầy đâu ? Các con nên biết ĐẠO MẦU LÀM BỬU
PHAN TIẾP DẨN. THẦY ban ơn các con, Thầy thăng.
 (Trích lục trong quyển Đại thừa Chơn giáo trang số 58)

 

III.- NỀN TẢNG CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO
 
THI
GIÁC đạo thông thường lư chánh chơn.
MINH tâm dưỡng tánh luyện kim đơn,
KIM thân đắc ngộ siêu Tam giới
TIÊN Phật chứng thành thọ đức ơn.
 
 Chào chư hiền nam nữ kiêm đàn. Ngă giờ hôm nay, đắc lịnh chí tôn đến bày tỏ đôi lời Đạo Đức. Vậy chư hiền thành tâm tịnh đàn nghe tiếp.
 
TRƯỜNG THIÊN
Đạo, đời hai nẽo lại qua,
Người tu khuyên khá t́m ra cội nguồn.
Trần ai ngây ngất khói un,
Nhơn t́nh chôn đắm vào khuôn khổ đời.
Ḱa là vật đổi sao dời,
Non ṃn biển cạn cơ Trời biến thay !
Họa chung chịu những đắng cay,
Biết phương thoát khỏi trần ai nảo nùng.
Đời người sao khỏi kiết hung,
Nương thoàn Đạo Đức vẩy vùng thoát mê.
 
THI
Mê đắm t́nh đời luống khổ tâm,
Muôn thu chịu măi bước sai lầm.
Xa đường Thiên Đạo không trông thoát.
Nhơn dục đốt cháy bừng trí tâm.
Tâm phàm tử, Đạo Đức sanh,
Làm cho trí tuệ, hiệp thành Phật Tiên.
Nương thoàn thẳng tới Đào Nguyên,
Là nơi an lạc niên niên hưởng nhàn.

 

- PHÚ -

Bần Đạo ḍm thấy cuộc đời người biết bao nhiêu hạng say mê v́ tửu khí, sắc tài.
Mà đành chôn hết cả thân ḿnh vào trong gió bụi !!!
 Kiếp người ngắn ngủi, thoạt mất, thoạt c̣n,
 Luyến hồng trần làm mờ ám trí tuệ sắt son.
 
THI
Ngó kỹ mà coi khổ quá chừng ;
Sóng t́nh cuồn cuộn sớm dời chưn ;
Nhảy ra cho khỏi ṿng nô lệ,
Dục tắt lửa ḷng Đạo Đức hưng.
 
THI BÀI
Đuốc chơn lư khêu đà sáng tỏ,
Đạo Đức truyền đời rơ căn nguyên ;
Hồi đầu thọ pháp tâm truyền,
Lo trau luyện tánh Phật Tiên đắc thành.
 
Xa nẽo Đạo tánh lành mờ ám.
Khối tinh thần suy giảm muội mê !
Cả mang tham dục nặng nề,
Thê thằng tử phược khó bề thoát thân ;
Chôn trí tuệ trong trần đày đọa,
Bỏ thiện căn tai họa chập chồng !
Cuộc đời có hóa ra không,
Bởi chưng cá chậu chim lồng khổ thay !
 
Nay Đạo Đức mở mang phong hóa,
Tỉnh quốc hồn lánh họa, an nhàn,
Bước theo thẳng một con đàng,
Trở về cựu vị hưởng nhàn thiên thu !
 
Mặc kệ thế vơng dù xe ngựa,
Ḷng nhiễm trần lo rửa cho ra,
Hiệp thành chơn lư tinh ba,
Sửa ḿnh nên Đạo ôn ḥa thiện lương.
oOo
THI
Lương phương diệu dược đă tầm ra,
Ắt dứt si mê hết bệnh tà,
Hồn vía tỉnh say thí tự hối,
Khử trừ dứt tuyệt chứng trầm kha.
 Thành tâm tiếp giá Phụ Hoàng ngự lâm. Ngă
chào chư hiền, Ngă kiếu thăng.
 
THI
NGọC minh chiếu điện bửu linh thiên,
HOÀNG phụ hoát khai pháp chánh truyền ;
THƯợNG đức tĩnh tâm, tu đắc quả,
ĐẾ căn phản bổn hiệp thiên nhiên.
THẦY các con, THẦY mừng các con.
 
THI
Thiên nhiên tỳ Đạo chẳng phai ṃn,
Ṃn ấy là do tại các con,
Con biết siêng năng đào luyện măi.
Th́ là sáng suốt tợ châu son.
oOo
Son sắt một niềm chớ đổi thay,
Ǵn ghi Thánh huấn Đạo phô bày.
Nương thoàn bát nhă hồi nguyên bổn.
Níu vững chơn truyền kẻo sẩy tay.
oOo
Sẩy tay lọt tuốt xuống A Tỳ,
Chịu những khổ sầu rắc rối nguy.
Mờ mịt biết đâu tầm trở lại.
Chung quanh bao chặt bít đường đi.
oOo
Đi lại mấy lần dạy bảo con,
Siêng năng tu tịnh phận lo tṛn,
Sớm khuya chăm chỉ cơ siêu thoát,
Thiện phước ṿ tṛn một quả ngon.
oOo
Quả ngon dành để đợi các con,
Hưởng thử đào tiên vĩnh kiếp tồn,
Tự toại tiêu diêu nơi đảo Thánh,
Vui say mùi Đạo chốn Bồng Non.
oOo
Non tiên dưỡng tánh mấy muôn đời,
      Khổ hạnh trải qua khắp mọi nơi,
Tấn hóa noi theo chơn lư Đạo.
Dày công mới thể đoạt cơ Trời.
oOo
Cơ Trời mầu nhiệm dễ ǵ tầm,
Suy nghĩ cho ra tránh lỗi lầm,
Thoát kiếp luân hồi nhờ trí tuệ,
Siêu phàm nhập thánh tại nơi tâm.
oOo
Tâm giác làm nên Phật, Thánh, Tiên.
Người tu noi đấy đoạn nhơn duyên,
Tâm mê dẩn dắt làm ma quỷ,
Lộn kiếp lông sừng chịu đảo điên !
oOo
Điên đảo ḷng con nỗi Đạo, Đời,
Đời con rộn rực luyến mê chơi,
Đạo th́ cũng muốn tu thành Phật.
Theo Đạo th́ con lại tiếc đời !
oOo
Tiếc đời nên cứ đắm vùi thân,
Thầy đến vớt lên đă mấy lần,
Tánh tục vẩn ưa màu sắc đẹp,
Ḷng phàm khó dứt khổ mê tân !
oOo
Tân trào cuồn cuộn sóng văn minh,
Bủa khắp nền nhân đă gập gh́nh.
Gió phất bùa mê dời muội trí,
Dấy hừng vật chất thấy mà kinh.
oOo
Kinh sợ sau này có chuyện nguy,
Sanh linh chung chịu cuộc sầu bi,
Thầy thương không lẽ khoanh tay ngó,
Lập Đạo toan phương giải thoát th́...
 
oOo
 
Th́ giờ Thầy đă tái lâm rồi,
Che chở cho đời tránh khúc nôi,
Những tưởng tin và hành Đạo Đức,
THẦY giùm giúp sức thoát luân hồi.
oOo
Hồi nào mê muội lỗi lầm sanh,
Biết Đạo toan phương tập, tánh lành,
Vùng vẫy thoát ra màn hắc ám,
Chống đương lũ quỷ bước cho nhanh.
oOo
Nhanh lẹ kịp đ̣ kẻo trể con,
Trể chơn trông đợi chí tâm ṃn,
Bao giờ gặp đặng thuyền qua nữa,
Tiếng trống giục hồn tỉnh thức con.
oOo
Con thông Đạo lư của Cao Đài,
Luyện vóc kim thân trí tuệ khai,
Tấn hóa tự nhiên đừng vọng tưởng.
Tưởng điều h́nh bóng đó là sai.

 

THẦY GIẢNG SƠ VỀ NỀN TẢNG CAO ĐÀI ĐẠO GIÁO
 Cái quy củ chuẩn thằng của Đạo Đức phải noi theo mà hành cho đúng phép, chớ nên canh cải phải sai lạc chơn truyền. Về phương pháp tu tánh luyện mạng th́ vô vi vô xú, các con tu luyện phải lo dụng công vận chuyển pháp luân y theo tâm truyền khẩu thọ. Nên hay không là về phần trừu tượng vô vi : các con lấy trí phàm mắt tục mà lường đo, ḍm ngó sao thấu đáo ? Thành hay không là tại nơi các con trọn đủ đức tin, siêng năng tập luyện về phần vô h́nh th́ trên có THẦY bố hóa cho, các con nào biết chi mà mong mỏi ? Đạo mầu một ngày một mở mang rộng lớn ; người tu cũng thế ; luyện đơn nấu thuốc không phải một ngày một buổi chi mà thành, phải tận tâm ch́ trí, cứ lo tu gom phần nhập định, bảo tinh,
 dưỡng khí, tồn thần, lâu ngày tụ lại thành nhị xác thân ; nhưng phải luyện cho đũ đầy ngày tháng chớ đừng nóng nảy. Thí như cái cây, gieo hạt xuống nứt mộng lên hai lá, lần lần đâm lộc nảy chồi đơm hoa trổ lá là do nơi quyền thuật thiêng liêng. Nó hấp thụ khí âm dương mà lần lần to lớn. Chớ có ai làm cho nó lớn đặng và muốn mau trổ trái đơm bông bao giờ ? Xưa người nước Tống cấy mạ thấy lâu lên nóng ra nhóm gốc cho nó cao thêm không ngờ phải chết. Ấy là các bằng chứng để cho các con noi đấy mà làm ; cứ lo tu tịnh đừng nhiều chuyện, lắm lời, tầm kinh điển, đơn thơ làm cho trí óc mơ hồ, lộn xộn. Thánh Hiền xưa lấy (mượn) nhiều tên đặt ra món này vật kia muôn đường, ngh́n ngỏ, nào là Long Hổ giáng thăng, Càn Khôn giao hiệp, biết bao nhiêu tên, người sau lầm tưởng mà làm sái quấy luôn !!!
 
 Đạo THẦY không chi lạ ÂM với DƯƠNG, THẦN với KHÍ, không ngoài ra lẽ đó. Các con muốn rỏ Đạo th́ dùng Âm Dương là căn cớ vậy.

 

TRƯỜNG THIÊN
 
Dựng nền tảng Đ[1]O CAO ĐÀI,
Phổ thông chánh pháp chia hai chơn-truyền.
Hữu h́nh hiệp với thiêng liêng,
Th́ là rỏ thấy căn nguyên Đạo Mầu.
Định hồn thấy hiện minh châu,
Chiếu soi khắp cả hoàn cầu quang huy.
Tâm truyền Nội Giáo Vô-Vi,
Là cơ xuất thế hồi quy Động Đào.
Luyện hồn sáng suốt thanh tao,
Linh quang sẽ đặng nhập vào bổn nguyên.
Chừng nào quả măn ; công viên,
Bửu phan chực rước thiêng liêng trở về.
Đạo làm người hết mẩn mê,
Đạc hưng thấm thúy ắt kề Phật Tiên,
Chỉ phương nhập định, tham thiền.
Tri căn cơ Đạo bí truyền luyện tu,
Vẹt lằn khói tỏa sương mù.
Chín tầng Trời Đất thanh u thông đồng.
Thầy truyền có một chữ không,
Chữ không làm đặng lục thông chứng thành.
Người tu tập sữa tánh lành,
Cho ra vẻ Đạo cho rành lư chơn.
Đáp đền cho vẹn chữ ơn,
Nhẩn ḥa, khiêm nhượng ḷng nhơn trải đời.
Đừng làm chuyện quấy tṛ chơi,
Noi theo Thánh-Triết truyền lời lại kia.
Chuyên cần dậy sớm thức khuya,
Đạo tâm một khắc đừng ĺa nó ra.
Người mà để Đạo Đức xa,
Nội trong giây lát quỷ ma xen vào.
Tưởng tin Tiên Phật trên đầu
Giúp ḿnh tu luyện dài lâu vững bền.

Tuyệt nhiên thanh tịnh là nền,
Dụng công khổ hạnh mới nên Thánh Hiền.
 Dể ǵ làm đặng Phật Tiên,
Đặng là nhờ pháp bí truyền mà thôi.
Ngoài ra th́ khó mong rồi,
Tu không luyện mạng, luận hồi hưởng an,
Dẫu nhiều công đức thế gian,
Sau này hưởng phúc giàu sang với đời.
Dể chi nhập đặng cửa Trời,
Dể chi thoát khỏi luân hồi tử sanh !
Tại sao ? Tại chẳng chí thành,
Kim thân chẳng có, cao thanh khó về.
Xát phàm, chất trước nặng nề,
Linh hồn chôn chặt không bề nhảy ra.
Những dây cột trói lắm đa,
Không tường manh mối khó mà mở xong !
Đính theo thể phách ngoài trong,
Nặng nề trầm xuống mỏi mong ǵ thành ?
Linh hồn tuy vẩn trường sanh,
Thần thông quảng đại vận hành thiêng liêng.
Luận qua Ngoại Giáo Công Truyền,
Phổ thông chơn lư Đạo Huyền độ nhơn.
Dạy người chí chánh chí chơn ;
Vẹn tṛn trung hiếu, nghĩa nhơn, hiền lành.
Chánh tâm, tu kỹ, tập tành,
Tề gia, trị quốc, đời lành an bang.
Nên người quân tử hoàn toàn,
Thanh liêm hạnh đức mở mang giúp đời.
Trên không phạm pháp Phật Trời,
Với tâm khỏi lỗi với đời gọi tu.
Kết thành đoàn thể dài lâu,
Liền vây, liền cánh giúp nhau trọn niềm.
Ḱa là sông cá, rừng chim,
  Có đoàn, có thể, nổi ch́m có nhau.
Nương theo lớn trước, nhỏ sau,
Chim bay, em thấp, anh cao, một chiều.
Biết điều tŕu mến thương yêu,
Giữ ǵn quyền lợi làm điều ích chung.
Mày râu báo quốc tận trung,
Vẹn câu hiếu Đạo lao lung một ḷng.
Nghĩa nhân giữ kỹ trọn xong,
V́ nhau chung chịu mới mong ưu thời.
Đạo c̣n nương dựa với đời,
Dùng h́nh thức để cho người tầm tu.
Tâm truyền thứ lớp công phu,
Công truyền trật tự chư nhu hoàn toàn.
Đạo mà thể một con đàng,
Th́ chưa phải đạo minh quang Phật Trời.
Đạo vô h́nh ảnh trong đời,
Đạo không tăm tiếng người người tuân theo.
Cội nguồn biến hóa ẩn bày,
Có tên tuổi đó là ngày hóa sanh.
Người tu đến bực chí thành,
Làm cho Thiên Lư lưu hành bốn phương,
Nhơn dục tịnh tận thuần dương,
Mâu ni then máy mở đường siêu sanh.
 
THI
Sanh ra rồi chết chết đi đâu ?
Xác thịt rả tan chẳng mấy lâu,
Linh tánh tinh anh trên cơi thượng,
Sao không mượn Đạo luyện tâm màu ?
oOo
Mầu vi đào tạo vóc kim thân ;
Luyện đặng kết thành nhị xác thân.
Bác bửu kim cang nên Thánh Đức,
Phiêu lưu định trí xuất chơn thần.
oOo
Chơn thần xuất khỏi xác phàm phu,
Nương gió bay lên cảnh tuyệt mù,
Nhẹ gió phiêu lưu trong Vũ trụ,
Mặc t́nh an hưởng, mặc châu du...
         oOo
Du lịch khắp cùng cơi thế gian,
Xem qua t́nh trạng động ḷng than.
Nhơn sanh mắc phải trong ṿng khổ,
Thấy vậy mà Thầy đổ lụy chan !!!
oOo
Chan chứa ḷng lo cứu thế thời,
Tang thương biến cải các con ơi,
Họa chung thế giới đồng tiêu diệt,
Lánh khỏi nhờ chưng biết Đạo Trời !
oOo
Trời Phật từ bi nhỏ phước lành ;
Chở che tai họa độ nhơn sanh ;
Nhủ khuyên mỏi miệng đời toan dữ,
Giận bấy đoàn con chẳng thiện hành.
Thầy ban ơn các con
THẦY thăng
 (Trích trong quyển Đại Thừa chơn giáo rong số 78)
 
IV.- TÔN CHỈ CỦA CAO ĐÀI Đ[1]I Đ[1]O
 
THI
NAM bang gặp đặng Đạo Trời gieo,
PHƯƠNG pháp thoát ra chốn hiểm nghèo.
GIÁO dục người đời nên Thánh Đức !
CHỦ trương lư chánh biết t́m theo
THẦY mừng các con.
Thầy lấy làm vui với các con.
 
THI
Đại Thừa, Thánh Đạo lố huyền cơ,
    Ngọc báo trương ra vẹt ám mờ,
Lấp biển khổ bằng như mặt đất,
Sóng yên dưới nước tợ trên bờ,
 
TRƯỜNG THIÊN
Đạo trời ngày một hoằng khai,
Cái danh hiệu của Cao Đài sáng trưng.
Ba nền tôn giáo trùng hưng
Nhơn sanh thấy đặng vui mừng ngày kia.
Khó khăn con cũng chớ ĺa.
Th́ THẦY điểm hóa trao ch́a khóa cho
Đứa nào có chí siêng lo,
 Tầm đường chánh giáo thoát ḷ Thiên quân.
 
ĐÂY THẦY LU
N VỀ CH HU VÀ CH VÔ

 
             THI
Hễ tầm chỗ Có bỏ nơi không,
Đứa ấy c̣n đương nhốt lại lồng.
Đạo cả vô vi chơn chánh lư,
Tu tâm luyện tánh ở bên trong.

 

Đạo THẦY là vô h́nh, vô dạng. Nhưng cái lư vô vi ấy cần phải nương với hữu h́nh (hồn
hiệp xác) chẳng nên lấy cái có mà bỏ cái không mà củng chẳng nên ǵn cái không mà quên cái có. Vậy th́ Có,Không phải đi cặp nhau. Như hột lúa các con dùng đặng mà nuôi lấy thân thể ấm no là dùng hột gạo ở trong : chớ cái vỏ trấu ở ngoài các con dùng sao đặng. Nhưng các con muốn có hột gạo th́ phải dùng luôn cái vỏ lúa đặng gieo xuống th́ nó mọc lên, chớ các con nếu không cần cái vỏ rồi các con lột ra trụi luỗi c̣n hột gạo trơ trơ th́ các con gieo sao cho nó nức mộng đặng, các con ?
 Vậy các con tu hành cũng y như lẽ đó.
 Muốn dưỡng linh hồn phải cần xác thịt này mà luyện Đạo mới thành. Nhưng một điều là các con chẳng trọng sự hữu h́nh. Hễ con nào c̣n trọng h́nh thức bề ngoài th́ con đó chưa rơ Đạo. Đạo là cái pháp tâm linh diệu có một không hai. Dầu cho nước nào, dân tộc nào cũng noi theo cái lư độc nhất vô nhị ấy mà thôi.Đạo Thầy đương thời kỳ phôi phai, hoằng hóa, phổ độ chúng sanh, bất luận là người nào, nước nào tu theo cũng đặng. Chớ các con dùng cái h́nh thức bề ngoài mà truyền bá cho hạp với phong tục của các con sao đặng ? Thí như nước không biết cúng kiến thờ phượng, các con bắt người ta phải thờ phượng cúng kiến như các con th́ các con mới truyền Đạo cho th́ trái hẳn với phong tục nước người. Nó không khứng chịu th́ các con không khứng chỉ truyền ắt cả chúng sanh phải chịu luân hồi trả quả sao các con ?
 Khờ lắm ôi ! Vả lại sự kinh kệ các con dùng tiếng Nam, rồi các con buộc các nước khác phải đọc giống in tiếng Nam của con, làm như con, con mới chịu chỉ truyền, sao các con ? Đạo THẦY không phải vậy đâu ?
Các con c̣n nghịch nhau, cân đai, áo măo. Cái cân đai, áo măo đó có thể đem các con đến địa vị Phật Tiên chăng ? hay là nó dẫn dắt vào nơi tội lỗi ? Các con cố tranh nhau về Đạo Đức chớ đừng tranh nhau về h́nh thức bề ngoài th́ mối Đạo mới hoằng khai khắp chốn. THẦY có một điều khuyên các con phải giữ lấy hạnh đức người tu. Các con đáng sợ là sợ muôn mắt trông vào, nhiều tay chỉ trỏ. Người ta thấy cái giáo lư rất nghiêm trang th́ ai lại không khẩn cầu truyền Đạo. Nhưng Đạo THẦY (Im ẩn sâu xa) mầu nhiệm lắm, các con khó mà theo kịp. Các con cứ vững tâm tu luyện hoài, đừng thái quá, đừng bất cập. Xu2a kia có người chê mặt trời sao đi chậm chạp không bằng con kiến ḅ ; chừng nào tới chổ ? Người ấy tưởng ḿnh đi lẹ gấp trăm lần, nên ra đi thi với mặt trời. Nhưng mặt trời chen lặn mà người ấy chưa tới đâu hết lại bị trong ḿnh mỏi mệt ; khát nước đói cơm mà đành bỏ ḿnh nơi rừng vắng ! Cũng như người nước Tống cấy mạ thấy lâu lên làm tài khôn ra nhóm gốc lên hết cho cao th́ lúa kia đều chết ráo ; các con khá rơ à !
Tu hành cũng như các con gieo hạt giống th́ chắc nó mọc lên, mà mọc th́ các con siêng năng bổn phận, tưới nước hằng ngày, thủng thẵng nó lớn, một ít ít. Lâu ngày nó đơm hoa trổ trái. Sức lớn ấy do Lư Thiên Nhiên chớ các con làm sao nó lớn đặng ? Các con nghe :

 

TRƯỜNG THIÊN
Tu hành giữ mực thường thôi,
Đừng bầy vẽ lắm rồi bôi lem đầy (cười cười)
Các con biết đặng Đạo THẦY,
Đạo THẦY không chịu cho ai biết ḿnh.
Ở ăn như thể thường t́nh,
Lo tu luyện Đạo, sửa ḿnh tinh ba.
Tu không biểu mặt đồ dà,
Cạo râu, thế phát, bỏ nhà, ĺa con !
Ông bà, cha mẹ đương c̣n,
Phải lo báo đáp cho tṛn hiếu trung.
Vợ chồng chọn nghĩa thủy chung,
Giữ như sen mọc dưới bùn không nhơ,
Làm như dốt nát dại khờ,
Đừng cho kẻ thế rằng ngờ ḿnh tu.
oOo
V.- QUẢ BÁO LUÂN HỒI
 
THI
NGỌC linh trước mắt mấy ai tường,
HOÀNG phụ thấy đời xiết nỗi thương.
THƯỢNG đạt nên người chưa mấy kẻ,
ĐẾ Thiên thương xót đến đem đường.
Thầy mừng các con.
 
THI
Thinh thang bao quát cả Càn-Khôn,
Thế giới Hư-Linh thế giới hồn.
Hồn xác lẫn nhau bồi quả kiếp,
Xanh xanh qua lại lúc hoàng hôn.

 

THẦY thấy đời quá ư tội lỗi, nhơn sanh xua đuổi về đường vật chất làm tiêu mất nẽo linh quang, mảng vui say ưa thích danh vọng lợi quyền nào thấu đáo mày hành tàng cơ dĩ định !!! Nay nhằm kỳ tận diệt cuộc dinh hư tiêu trưởng sắp bày, người c̣n mê mẫn đắm say theo tửu, khí, sắc, tài, nào có hay sự sắp khổ bên tai, cơ xáo trộn biến thiên, đó là muôn vật chịu tiêu diệt, đọa đày trong Thiên Địa đại luân hồi. Cơ mạt kiếp hầu kề, nên chi Thầy không nỡ để cho bầy con phải chịu tận vong, hiệp Tam Giáo, hội đồng Phật, Thánh, Tiên mà hưng truyền Đại Đạo. V́ ở thế gian cũng có người lành, kẻ dữ, đứa hiền lương đạo đức, chuộng tinh thần, ham ích chung, c̣n đứa lại hung ác, bạo tàn, mê vật chất, mến t́nh đời mà xađàng Thiên-Đạo. THẦY thấy vậy không lẽ để các con cả lành lẩn dữ chung chịu trong cơ biến đổi của tang thương nên giáng thế lập Chơn Đạo, khai Chơn Giáo Đại Học Đường là : minh đức tân dân, chỉ ư chí thiện. Con nào biết th́ noi theo đó mà làm phương pháp thoát ra khỏi đường sanh tử.

 

THI
CAO ĐÀI Đ[1]I Đ[1]O đức minh thông,
Giáo dục hồn dân đến cảnh không,
Qui củ chuẩn thằng nền tảng Đạo,
Linh hồn tấn hóa giữ điều công.
 
TRƯỜNG THIÊN
Công b́nh tạo hóa hay thương,
Thương đời nên phải dùng phương cứu đời.
Cơ mầu nhiệm Phật-Trời ẩn giấu,
Pháp tâm truyền tri thấu bổn nguyên.
Gầy nên cẩm tú sơn xuyên,
Toàn thông, tuyệt xảo, diệu huyền ẩn vi.
        oOo
Người thượng đạt tầm suy, nghĩ ngợi,
Khảo cứu thông vạn đợi tinh vi.
Âm dương vận chuyển hiệp qui,
Hai năng lực đó cứ thi hành hoài.
oOo
THẦY Chúa Tể hoằng khai Đạo Đức,
Nắm mối giềng hiệp nhất Càn-Khôn,
Chia ra biết mấy nhiêu hồn,
Nhập vào vật chất bảo tồn cơ quan.
 
oOo
Ba Tôn Giáo vén màn bí mật,
Rơ pháp linh Tiên Phật sắp bày,
Cho đời biết lư Đạo khai,
  Linh hồn ảnh hưởng trần ai lẽ nào ?
oOo
Từ thảo mộc được vào nhân loại.
Quả kiếp nhồi mắc phải khổ lao,
Càng bền chí, bước càng cao,
Càng tu luyện măi càng vào cảnh tiên.
oOo
Linh hồn rất linh thiên biến hóa,
Đoạt thần thông phép lạ vô h́nh.
Thiệt là chí bửu trường sanh,
Luyện cho đắc huệ khiết thanh hoàn toàn.
oOo
Khí hư vô bao trùm Thái Cực,
Thái Cực ngôi độc nhứt chủ trương,
Thần thông biến hóa khôn lường ;
Cơ quan đóng mở, ghi thường Đạo Cao.
oOo
Lư quang minh bao trùm Vũ Trụ,
Tạo Càn Khôn khí cụ sắp bày,
Tri nguyên quá khứ, vị lai,
Gây nên các giống đặt bày vẻ vang.
oOo
Thái Cực Đại Linh Quang nguyên thỉ,
Động tịnh cơ lư khí tương ḥa,
Ở trong một khối chia ra,
Thiên h́nh vạn trạng tinh ba ẩn tàng.
       oOo
Mọi vật có linh quang cư tại
Hồn thiêng liêng vận tải sanh tồn,
Là v́ có dại, có khôn,
Bởi chưng thanh trược nên hồn thấp cao.
oOo
Linh quang chiếu nhập vào vật chất,
Vật chất nhờ tánh Phật điểm khai,
Linh hồn bỏ xác ra ngoài !!!
Th́ trong vật chất h́nh hài tiêu tan !!!
oOo
Linh hồn được mở mang, thông thái,
Kinh nghiệm đời quấy phải phân minh,
Nhập trong các món hữu h́nh,
Lập công bồi đức trau ḿnh nên gương.
oOo
Tấn hóa măi trên đường Đạo Đức.
Bỏ xác về hiệp nhất bổn nguyên,
Thiệt là diệu diệu, huyền huyền,
Bất tiêu, bất diệt là Tiên trên Trời.
oOo
Hồn phải chịu luân hồi học hỏi,
Học cho thông các cơi mới thành.
Học cho rơ cuộc tử sanh,
Rơ đường tấn thối, dữ lành, giác mê.
oOo
Hồn thanh bạch lo bề Đạo Đức,
Tu luyện hầu hiệp nhứt cảnh không.
Cầu truyền tâm pháp thần thông.
Lập tâm thanh tịnh dụng công đêm ngày.
oOo
Đoạt thấu chỗ bổ lai diện mục,
Rửa sạch ḷng phàm tục bợn nhơ,
Trầm tư mặc tưởng huyền cơ,
Thoát thai thần hoá một giờ đắc minh.
oOo
Hồn thoát khỏi tội t́nh nhơn quả,
Đi măi trong đường cả Phật Tiên,
Nêu gương đức hạnh lưu truyền,
Thế gian ca tụng người hiền đắc đơn.
oOo
Hồn nào làm bất nhơn, phi nghĩa,
Chịu đọa đày nhiều phía gớm ghê !
Mang thân ô trược nặng nề,
Linh hồn mờ ám muội mê bao ṿng !
oOo
Chừng nào gỡ cho xong thể chất,
Cột ràng quanh chất ngất dây chằng,
Biết nguồn Đạo Đu4ức tầm phăn.
Đoạn tiêu dứt sách, vụn vằn cắt ra.
oOo
Cởi lốt trược ngoài da trong bọc,
Lấy ḷng chơn lửa lọc thanh quang,
Linh hồn thong thả, nhẹ nhàng,
Hết ưa mùi tục không màng sướng vui.
oOo
Nợ nhân quả lấp vùi tánh đức,
Biết ngày nào gở dứt tiền khiên,
Trả vay, vay trả liền liền,
Nhơn nào, quả nấy nghiệp duyên buộc ḿnh.
oOo
Bóng cong vạy tại h́nh cong vạy,
Tợi nghiệp đi qua lại không chừng,
Xác phàm sung sướng vui mừng,
Linh hồn phải chịu bâng khuâng năo phiền !
oOo
   Gieo giống chi mọc liền giống nấy,
Cảm vật nào vật ấy ứng cho,
Coi như trong cái xe ḅ,
Bánh xe lăn trả kịp giờ bước chưn.
oOo
Ḅ ngừng lại bánh xe ngừng lại;
Chậm hay mau là tại nơi ḅ,
     Bánh xe nó chạy theo gị,
Chạy không, cũng tại con ḅ gây ra.
oOo
Xét lỗi người, lỗi ta ai xét;
Sương nhà người, người quét đặng thôi,
Muốn mau thoát kiếp luân hồi,
Kiếp này rán chịu quả nhồi cho mau !
oOo
Đời cũng có nghèo, giàu, cao, thấp,
Tại nơi người tạo lập nó ra,
Rồi than oán trách Trời Già,
Không ngờ ta chác lấy ta cho nhiều.
oOo
Ḷng tham dục bao nhiêu cho đủ,
Để thất t́nh làm chủ lấy tâm.
Khiến gây tội ác lỗi lầm
Người chưng mắc phải vướng nhằm khổ nguy!
oOo
Ḷng quấy quá tráo ch́ thay bạc,
Mỏi mong lo cố gạt của đời,
Không dè mắc phải lưới Trời,
Thưa mà không lọt, chuyện người mảy lông !
oOo
Luật Báo Ứng phép công thưởng phạt,
Hành hồn rồi hành xác chẳng chơi,
Nhơn nào quả nấy chẳng rời,
Đ̣n cân công luật Phật Trời thưởng răn !
oOo
Đặng quả ngon th́ ăn lấy hột,
Gieo lại mà mai mốt c̣n ăn,
Nhược bằng hưởng quả hột quăng,
Ngày sau thèm khát xin ăn của người.
oOo
Nay đắc thế vui cười cho lắmn
   Sau suy thời bụi bặm lấp thân,
Biết lo bố đức thi ân .
Luân hồi trở lại hưởng phần cao sang .