KHỔNG TỬ |
Biên khảo Huỳnh Tâm |
Khổng Tử vốn là con cháu đời sau của nước Tống (Hà Nam), ḍng dơi nhà Ân. Trong bộ Sử Kư, một bộ sử đáng tin cậy nhất của Trung Quốc chép rằng : Trong bộ Sử Kư, một bộ sử đáng tin cậy nhất của Trung Quốc chép rằng :
Tổ tiên Ngài là người nước Tống, tên là Khổng pḥng Thúc. Khổng Pḥng Thúc sinh ra Bá Hạ hạ sinh ra Thúc Lương Ngột ". Thúc Lương Ngột tức là thân sinh của Khổng Tử, làm quan vơ, lấy người vợ thứ nhất sinh hạ được 9 người con gái. Không có nam tử để nối ḍng, ông lại lấy thêm người vợ thứ hai và người vợ lẽ nầy sinh được một người con trai tên là Mạnh B́ nhưng chẳng may mang tật què chân. Măi về già người vợ lẽ không sinh thêm được người nào nữa nên ông mới lấy bà Nhan tên là Trưng Tại ( thường gọi bà thứ 3 nầy là Nhan Thị ) và là người đă đúc nắn nên vị Vạn thế Sư biểu, thầy học muôn đời của loài ngoài. Vào khoảng thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa, về phía Đông nước Lỗ ( nay thuộc tỉnh Sơn Đông nước Trung Hoa ) xuất hiện một nhân vật xuất chúng, ấy là Đức Khổng Phu Tử. Khổng Phu Tử người làng Xương B́nh, huyện Khúc Phụ, nay thuộc phủ Duyên Châu, tỉnh Sơn Đông nước Trung Hoa. Tuy Ngài ḍng dơi người nước Tống ( Hà Nam ) nhưng sinh quán tại Sơn Đông là v́ ông tổ ba đời của Ngài dời sang nước Lỗ ( Sơn Đông ). Ngài sinh vào mùa đông, ngày Canh Tư tháng 10 năm thứ 21 đời vua Tương Công nước Lỗ, một nước chư hầu nhà Chu, tức năm Canh Tuất, niên hiệu thứ 21 đời vua Linh Vương nhà Chu (551 trước Tây Lịch kỷ nguyên ). Theo các nhà làm lịch và theo sự khảo cứu th́ ngày Canh Tư tháng 10 Âm Lịch nhà Chu, tức là ngày 28 tháng 9 bây giờ. Truyện kể rằng : Bà Nhan Thị thường lên núi Ni Khâu cầu tự, cho nên nhân điểm ấy được mang thai và sau khi sinh hạ lại đặt tên Ngài là Khâu tên tự là Trọng Ni. Lại cũng có nhiều giả thuyết ở sách khác chép rằng v́ khi sanh ra thấy tráng Ngài cao và gồ lên, cho nên mới đặt tên Ngài là Khâu. Khâu nghĩa là cái g̣. Khổng Phu Tử sinh trưởng theo lẽ tự nhiên cũng như mọi người nhưng v́ sau nầy Ngài là một bậc Giáo Tổ có công lớn với hậu thế nên người Trung Hoa (một dân tộc thích sống một cuộc đời lư tưởng tuyệt đối và vĩ đại) đă phóng đại nhân vật cao cả Khổng Tử bằng những thần thoại huyền bí. Tương truyền trước khi có mang Khổng Tử, bà Nhan Thị thấy con Kỳ Lân nhả tờ ngọc thư có chử đề rằng : " Thủy tinh chi tử, kế suy Chu vị tố vương ", nghĩa là : Con của Thủy tinh, nồi nhà Chu đă suy mà làm vua không ngôi. Thấy vậy, bà Nhan Thị bèn lấy dây lụa buộc vào sừng con Kỳ Lân. Nhưng được mấy hôm th́ con Kỳ Lân biến mất. Và từ đó bà Nhan Thị bắt đầu mang thai. Chừng sinh ra Ngài bổng dưng có hai con rồng hiện xuống quấn chung quanh nhà và có 5 ông lăo hiện thân của 5 v́ sao từ trên trời bay xuống đứng trầm mặc giữa sân. Cùng lúc ấy, trong pḥng bà Nhan Thị nghe âm nhạc nổi lên vang rền cả không gian và có tiếng nói từ trong ấy vọng ra : " Thiên cảm sinh thánh tử " (Trời cảm ḷng cầu nguyện cho sinh ra con thánh). Bấy nhiêu đó cho ta thấy công nghiệp của Khổng Phu Tử đối với loài người không phải là nhỏ và việc sáng lập ra Nho giáo của Ngài đă được người sau sùng thượng, chiêm bái như một nhân vật siêu phàm. Chính sử Trung Quốc có chép rằng năm lên ba tuổi Khổng Phu Tử đă chịu tang cho thân phụ. C̣n về học hành không thấy sử chép thế nào cả. Chỉ thấy sử nói rằng lúc nhỏ Ngài thích chơi với lũ trẻ và thường hay bày đồ cúng tế. Căn cứ vào đó người đời chứng tỏ cốt tính của Ngài là Người lấy điều lễ nghĩa làm trọng. Tuy là con ḍng cháu giống của một nước lớn nhưng xuất thân trong một gia đ́nh hàn vi, Khổng Tử thường nói : " Tôi thuở nhỏ là con nhà nghèo nên làm được nhiều việc tầm thường ". Sách Luận Ngữ Chương Tử Hản ). Năm Ngài được 19 tuổi th́ lập gia đ́nh và xuất chính với chức nhỏ Ủy lại. Chức nầy chuyên coi việc gặt thóc ở kho. Sau đó lănh chức Tư Chức Lại, chuyên coi việc nuôi ḅ, dê để dùng làm cho việc cúng tế. Sách Mạnh Tử có nói khi Khổng Tử đang làm hai chức nầy : " Đức Khổng Tử từng giữ chức Ủy Lại, Ngài nói sổ sách tính đúng là được rồi. Khi giữ chức Thăng Điền ( Tư Chức Lại ), Ngài nói, trâu dê chóng lớn, béo là được rồi ". Thuở ấy, Tuy Ngài c̣n trẻ tuổi nhưng được tiếng là người giỏi nên quan nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ cho hai con ḿnh là Hà Kị và Nam Cung Quát theo Ngài học lễ. Vốn là người học theo nho thuật, Ngài rất chú ư về lễ nghi và những phép tắc của cuộc sống đế vương đời trước. Lúc Ngài được 28, 29 tuổi, muốn được đến học ở Lạc Ấp là chổ Kinh sư nhà Chu nhưng v́ đường xa, nhà nghèo mà tiền lộ phí th́ quá tốn kém nên mộng không thành. Ngài thường để lộ sắc buồn ra bên ngoài, với những lời ước muốn cho ư định thành tựu là chờ dịp may sang Lạc Ấp học hỏi. Người học tṛ kề cận bên Ngài là Nam Cung Quát một hôm đem việc ấy bẩm với Lỗ Hầu, là vua nước Lỗ. Lỗ Hầu vội cho một cổ xe song mă và những người hầu hạ đưa Ngài đi du học. Ở Lạc Ấp có nhà Minh Đường của Chu Công lập ra để chứa những luật lệ và những bảo vật cùng những h́nh tượng của các vị thánh hiền đời trước. Ngài lấy việc lui tới nơi đây để khảo cứu tường tận và rất lấy làm thích thú, Ngài thường đi xem những chế độ nghi thức, nghi lễ nơi miếu đường hay những nơi tế Giao, tế Xă. Phàm ở đâu có việc ǵ quan hệ đến sư tế lễ không chổ và lúc nào Ngài không đặt gót đến để xem tường tận V́ tính ưa thích học hỏi về Lễ, Ngài lại đến xin yết kiến Lăo Tử để hỏi lễ và cầu gặp Trành Hoằng để hỏi Nhạc. Tư Mă Thiên trong bộ Sử Kư có ghi cuộc vấn đáp giữa Lăo Tử và Khổng Tử như sau : _ " Khổng Tử đến hỏi Lăo Tử về Lễ. Lăo Tử đáp rằng : Người quân tử gặp thời th́ đi xe, không gặp thời th́ đội nón lá mà đi chân. Ta nghe : Người buôn bán giỏi, khéo chứa của, coi như người không có ǵ ; người quân tử có đức tốt, coi diện mạo như người ngu dại. Ông nên bỏ cái khí kiêu căng, cái ḷng ham muốn cùng cái sắc dục và dâm chí đi ; những cái ấy đều vô ích cho ông ". Khổng Tử sau khi nghe chuyện về bảo các đệ tử rằng : _ " Chim th́ ta biết nó bay được, cá th́ biết nó lội được, giống thú th́ ta biết nó chạy được, chạy, bay, lội, ta có thể giăng lưới mà bắt được. Đến như con rồng th́ ta không biết nó cưỡi gió, cưỡi mây bay lên trời lúc nào. Hôm nay ta thấy Lăo Tử như con rồng vậy : " Ngô Kim nhật kiến Lăo Tử, kỳ do long gia ". Ở Lạc Ấp ít lâu, Khổng Tử trở về nước Lỗ. Từ đó tiếng tăm của Ngài càng nổi dậy lừng lẩy và sự học của Ngài có cơ phát nhảy nhanh chóng, to rộng hơn trước. Học tṛ các nơi nghe danh theo học càng lúc càng nhiều. Nhưng về đường tiến thân vào quan trường Ngài vẩn không được vua Lỗ tín dụng. Đến năm 35 tuổi, v́ nước Lỗ có loạn, Ngài bỏ sang nước Tề. Tề Cảnh Công đóng Ngài đến để hỏi việc chính trị. Dịp nầy, Ngài trổ hết tài lực của ḿnh với vua Tề. Ngài bàn luận chuyện chi vua Tề đều khen là chí lư, đến nổi Tề Hầu toan đem đất Ni Khê mà phong cho Ngài. Nhưng chẳng may, quan đại phu nước Tề là Yến Anh can ngăn nên vua không cho. Thấy thế, Ngài bèn bỏ đi trở về nước Lỗ. Bấy giờ Ngài đă được 35, 36 tuổi. Ngài chú tâm vào việc mở trường thâu học tṛ dạy dỗ. Cũng từ đấy Ngài tĩnh tâm suy xét tinh tường cái đạo của Thánh hiền đời trước. Năm Ngài 43 tuổi, nước Lỗ có việc Họ Quí tiếm quyền vua, bồi thần Dương Hổ làm loạn, Ngài càng chán ngán cho thế sự và vững tâm ẩn cư. HON Lộ CỦA KHỔNG TỬ : Năm Ngài được 51 tuổi (501 trước Tây Lịch kỷ nguyên) nhằm năm thứ 19 đời vua Kinh Vương nhà Chu, vua nước Lỗ là Định Công bổ nhiệm Ngài làm quan Trung Đô Tể, như là quan kinh thành phủ doản ngày nay. Năm sau, Ngài được thăng lên chức Đại Tư Khấu ( Tư Không, Tư Đồ ) giống như chức quan H́nh bộ Thượng thư bây giờ. Trong thời gian nầy Ngài làm được những điều đáng ghi nhớ như : đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo, chế ra phép tắc, định rỏ việc tống táng người chết. Nhất là việc định tôn ty trật tự lớn nhỏ, trai gái phân biệt, người bỏ tính tham lam, những của rơi ngoài đường không không nhặt, v́ thế gian phi không có, h́nh pháp tuy đặt ra nhưng không hề áp dụng đến. Năm 56 tuổi, nghĩa là bốn năm sau ngày lĩnh chức Đại Từ Khấu, Ngài được vua nước Lỗ thăng lên chức Tướng sự. Từ đó với quyền Tể Tướng, Ngài quyền nhiếp việc chính trị trong nước. Sử Trung Quốc có chép rằng : Khổng Tử lên giữ chức Tể Tướng được bảy ngày th́ Ngài đem tên Thiếu Chính Măo, là quan Đại Phu xảo quyệt gian hiểm, ác độc thời bấy giờ ra hạch tội và giết đi. ( Khi ấy các quan đại phu nước Lỗ là Quư Tôn, Trọng Tôn và Mạnh Tôn cầm quyền chánh không vị nể và coi nhà vua ra ǵ, khiến nước Lỗ biến thành cục diện chia rẽ trong nội bộ. Trước t́nh thế nầy, Khổng Tử nhận thấy nền thống nhất đất nước bị hăm dọa, Ngài liền hạ lệnh triệt bỏ ba Đô " Phí, Hậu, Thành " đồng thời giết Thiếu Chính Măo là một quan Đại phu âm mưu gây cuộc phiến loạn. Trong ṿng ba tháng, sau nầy nhiếp chính, việc chánh trị trong nước do Ngài chỉnh trang rất hoàn tất : Trật tự, lề lối phân minh, trai gái đều lấy câu " Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu trau ḿnh " làm đạo sống. Những yếu tố căn bản đó là lư đương nhiên đưa nước Lỗ sớm trở lại thanh b́nh, thịnh trị nhanh chóng. Phải nói trong thời kỳ nầy Ngài luôn luôn biểu lộ chủ trương " Chính danh Chủ nghĩa " diệt trừ tận gốc những bọn loạn thần tặc tử và cương quyết bảo vệ nền thống nhất xứ sở. Nhận thức được sự hưng thịnh của người bạn láng giềng nước Lỗ, nước Tề t́m đủ mọi cách để làm giảm sút sự vươn lên của Lỗ. Trong cái kế an toàn và linh diệu nhất là dùng đến mỹ nhân kế. Biết ư các vua chúa thời xưa rất ưa thích gái đẹp, ngựa tốt, vua Tề sai sứ mang 80 người gái đẹp lộng lẩy biết múa hát giỏi và 30 con ngựa khỏe, chạy giỏi dâng hiến cho Lỗ Hầu ở cửa Nam thành nước Lỗ. Thưở ấy quan Đại phu, một bậc quyền thần trong nước Lỗ, là Quư Tôn Tư hai ba lần ra tiếp diện có ưa ư thích nên tâu bẩm với Lỗ Hầu ra xem. C̣n ǵ bằng nữa ! Lỗ Hầu say mê, bỏ việc triều chính ba bốn ngày không ra ngự. TRÊN ĐƯỜNG CHU DU THIÊN H CỦA KHỔNG TỬ : Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược th́ c̣n ǵ hứng khởi nhịp nhàng nữa. Hơn nữa, việc ấy là việc nước. Quan quân sư dù giỏi đến đâu mà việc nước chấp chính phải một ông vua sắc dục đam mê th́ một sớm một chiều nước non nếu không chịu khuynh đảo th́ án rơi đầu cũng kề cổ chờ sẳn cho kẻ trung thần, bên cạnh là bọn nịnh thần, bè phái hả hê đắc chí mặc t́nh thêm bớt tâu rổi dèm pha và cười say nghiêng ngă. Bao nhiêu hành động bất minh của Lỗ Hầu đă cho Khổng Tử một cái nh́n viễn tượng đen tối, tang thương. Liệu không thể lấy sức người cô đơn chống nổi cuồng phong từm uôn phương vũ lộng tới, nhất là bảo táp, của đam mê, say đắm cả vua và bầy tôi nịnh thần, bất tài trong triều bấy giờ, cho nên nhân lúc nhà vua ŕnh rang yến ẩm làm lễ tế giao, không phân chia thịt cho các quan, Ngài liền bỏ đi sang nước Vệ. Hành động nầy có nhiều người không rơ tâm sự Ngài nên hỏi rằng : Ngài là bậc thánh nhân mẫu nghi thiên hạ sao lại v́ việc nhỏ mọn như thế mà lại bỏ việc nước ? Sự thắc mắc ấy có lẽ thầy Mạnh Tử sau nầy mới giải tỏ trong thiên Cáo Tử. Và nhờ cái ư kiến đó sau đây của Mạnh Tử, ta mới thấu hiểu được cái tính kính cẩn và sự chính chắn trong tư tưởng và việc làm của Đức Thánh Nhân ấy : _ Khổng Tử xuất chính với chủ đích nhờ dịp thuận tiện sẳn có để phổ biến cái đạo của ḿnh. Chủ tâm của Ngài khi hành đạo là đem việc lễ nghĩa làm đầu, lên trên tất cả mọi việc. Thế mà người được coi gương mẫu đứng đầu trong một quốc gia là vua, nhà vua không mảy may thiết ǵ đến lễ nghĩa của bậc phụ mẫu chi dân th́ chẳng đi làm sao được : " Vậy sự Ngài bỏ đi là v́ Ngài biết vua không muốn dùng ḿnh, chứ không phải v́ miếng thịt. Vă Ngài theo cái chủ nghĩa tôn quân, dẫu thế nào cũng phải giữ trọn cái đức của vua, cho nên Ngài mới nhân một điều lỗi nhỏ mà bỏ đi để không lộ cái điều dở của vua ". Sang nước Vệ được 10 tháng, Ngài thấy vua Vệ là người không biết để ư và chọn dùng người nên Ngài bỏ đi sang nước Trần. Nhưng dọc đường khi đến địa giới nước Khuông, dân quan ở đây nhận lầm Ngài là một tên tàn bạo bất nhân tên là Dương Hổ mà từ lâu mọi người ta thán oán ghét, nên đem quân ra chận đánh. Thầy Tử Lộ là học tṛ của Ngài thấy bọn người vô lễ đă xúc phạm đến Thầy ḿnh liền đứng ra chống cự nhưng Khổng Tử vội can ngăn và bảo Thầy Tử Lộ đem đàn ra gảy, hát để Ngài ung dung họa theo. Thấy hành động và nghe thấy được tiếng đàn câu hát của 2 thầy tṛ Ngài, người nước Khuông biết đă lầm liền xin lỗi và rút quân về. Bước đường đi gặp sự trắc trở khó khăn, Ngài không đi nữa và cùng Thầy Tử Lộ quay về nước Vệ một lần nữa. Lần nầy, nàng Nam Tử vợ của vua nước Vệ, một người đàn bà có nhan sắc quyến rủ và nổi tiếng về đường dâm đăng có ư muốn tiếp Ngài. Lúc đầu, Ngài nhận thấy sự tệ bạc của vua Vệ không tiếp Ngài mà lại để cho người đàn bà không đứng đắn tiếp Ngài nếu nhận lời th́ e thể diện của Ngài bị rẻ khinh. Ngài quyết từ chối. Nhưng sau nầy Ngài bất đắc dĩ vào yết kiến Nam Tử. Theo tục lệ nước Vệ lúc bấy giờ là ai đến nhận chức nước nào th́ phải vào yết kiến vợ ông vua nước đó. Thầy Tử Lộ thấy thế không hài ḷng và buồn bă. Ngài giải cho học tṛ ḿnh nghe và cuối cùng Ngài nói : " Dư sở phủ giả, thiên yếm chi ! Thiên yếm chi " ( Nếu ta có làm điều ǵ không phải, th́ Trời bỏ ta ! Trời bỏ ta ! - Sách Luận ngữ ). Chiều Nam Tử, vua Vệ mời Ngài đi xe theo sau xe Vua và Nam Tử du ngoạn ngoài thành thị, có người thấy thế biếm nhẻ rằng : " Ḱa ! Đạo Đức chạy theo cái Đẹp !" Ngài nghe thấy và buồn bă than rằng : " Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả giả " : Ta chưa thấy ai yêu cái đức tốt như yêu cái sắc đẹp vậy " ( Sách Luận Ngữ : Tử Hản " ) Ở nước Vệ, từ sự chán nản nầy đến sự chán nản khác càng ngày càng dồn dập, hiện đến trong tâm tư Ngài, nhất là thiện chí và niềm tin của Ngài bị thử thách quá nặng nề để cuối cùng gần như không kết quả ǵ cả. Buồn bă, ngài sang nước Tống may ra t́nh thế có thể khá hơn. Nhưng sự ước muốn của Ngài bị Hóa Công ghen ghét và cố tâm thử thách cho nên đến đây chẳng những hoàn toàn trái ngược lại ư tính mà tánh mạng Ngài suưt bị quan Tư Mă nước Tống là Hoàn Khôi hăm hại. Trước t́nh thế đau đớn ấy, Ngài cố vượt sang nước Trần. Ở đây, Ngài được vua Trần tôn kính và trọng đăi. Nhưng nước Trần lúc bấy giờ giặc giả nổi lên lung tung, cuộc sống luôn bị đe dọa, v́ thế nên sau ba năm trời cố gắng hành đạo vẫn bị lăng quên, Ngài quay gót trở về nước Vệ lần thứ ba. Lần nầy Ngài tưởng Vua Vệ sẽ giúp Ngài nhưng vua Vệ vẫn dửng dưng lạnh lùng. Trước thời gian vun vút đi nhanh mà thời vận th́ cứ lặng lờ chảy một cách yếu ớt gần như vô vọng. Ngài đâm ra hốt hoăng. Có lúc nghĩ đến việc đời " mục nát như cỏ cây " Ngài toan đem ḿnh ra thí nghiệm như một ván bài không ăn th́ thua. Đó là việc Ngài định sang giúp Phật Bật. Phật Bật là người bạn thân với Khổng Tử. Thầy Tử Lộ vội hỏi Ngài : - Ngày trước đệ tử được nghe Phu Tử dạy rằng : " Người quân tử không có nhập đảng với người nào đả làm điều bất thiện, nay Phật Bật lấy đất Trung Mâu làm phản mà Phu Tử lại định đến giúp là nghĩa làm sao ? - Ta có nói điều đó thật, nhưng cũng đă nói thêm rằng : " Vật ǵ đă cứng th́ dẫu có mài cũng khó ṃn được, vật ǵ đă trong sạch th́ dẫu có dấn vào chổ đen chổ bẩn cũng không đen không bẩn được. Ta đây há lại là quả dưa chỉ để treo mà không ăn được hay sao ? " Ư Ngài muốn nói : Khi Ngài là người có chính danh và biết lấy sự ngay thẳng, liêm khiết để theo giúp Phật Bật và dần dần cảm hóa được người lầm đường đó quay về nẻo chánh th́ dù việc theo giúp Phật Bật là không chính đáng, nhưng hành động có chủ đích tiến đến thành quà hợp lư như vậy th́ có phản lại cái đạo ngay đâu. Hơn nữa, làm người sinh ra trong cơi đời có tài trí th́ phải biết ư thức được thiên chức của ḿnh để hoạt động xông xáo giúp đời, ứng dụng vào đời chớ chẳng lẽ để cho ngọc kia lu mờ vô dụng một cách vô nghĩa hay sao ? Thất chí Ngài " toan trở nghề cơ tắc " bằng ư nghĩ cho hả cơn đau tức chứ chắc ǵ Ngài đă quyết tâm hành sự ? Và rồi Ngài không nhắc đến việc đó và không đi nữa. Sau Ngài thêm ư định sang giúp cho quan Đại Phu nước Tấn là Triệu Ưởng. Nhưng khi đến sông Hoàng Hà lại có tin cho Ngài biết là Triệu Ưởng là kẻ vô đạo nhẫn tâm sát hại hai người hiền sĩ là Đậu Minh Độc và Thuấn Hoa nên Ngài vội vă quay bước về nước Vệ. Lần nầy Ngài quyết tỉnh tâm suy đạo và an phận được ba năm. Một hôm, vua Vệ vời Ngài đến bàn việc binh. Lúc Ngài cùng vua bàn bạc cơ sự bỗng vua thấy đàn chim nhạn bay và kêu trên trời, vua ngẩng đầu lên trông một cách say sưa và lơ đảng việc Ngài đang nói. Hành động đó đă tố cáo vua là người tầm thường không biết đặt việc trọng đại quốc gia lên hàng đầu quốc sách, không lịch sự với người mà ḿnh có thể nhờ vả sau nầy và chắc chắn vua không có ư trọng dụng Ngài, một lần nữa Ngài lại sang qua nước Trần. Cũng năm nầy, quan Đại quốc Đại Phu Quư Tôn Tư nước Lỗ mất dặn con là Ph́ nên đón Ngài về quán xuyến, trông nom việc binh tướng giúp nước. Ph́ không thực thi đúng lời dặn của cha, lại đi đón người học tṛ của Khổng Tử là Nhiễm Cầu. Đến nước Trần được ít lâu Ngài lại cảm thấy cuộc đời cũng vẩn lờ đờ trôi trong vắng vẽ, lạnh lùng nên Ngài lần bước hy vọng t́m sang nước Thái rồi lại cứ thế Ngài lại tiếp tục sang nước Diệp. Bấy giờ vua nước Sở đă nghe tiếng Ngài là một bậc quân tử biết nuôi chí để t́m lư tưởng, một lư tưởng nhân sinh cao cả, vua ngưỡng vọng và cho người t́m đón Ngài đến nước Sở trọng đăi. Nhà vua c̣n định đem 700 dặm đất kính dâng và phong cho Ngài tự trị, nhưng chẳng may thời Ngài chưa có nên bị quan Lệnh Doăn là Tử Tây dèm pha, ngăn cản quyết liệt. Một lần nửa Ngài ghi lên trang nhật kư chông chênh của đời ḿnh thêm một thất vọng chua cay. Ngài trở lại Vệ Quốc lần cuối cùng với mớ tâm sự ngổn ngang. Mối hy vọng ngày nào nay đă trở thành vô vọng. Có lẽ đâu đời bạc đăi Ngài một cách gần như tàn nhẫn đến thế ? Ngài đi đến đâu cũng gặp trắc trở và tất cả các nhà vua đều không một ai quyết tâm hay muốn dùng Ngài. Lư lẽ chính là v́ các quan Đại Phu sợ Ngài rồi sẽ chiếm mất địa vị của ḿnh nên họ quyết t́m đủ mọi cách ngăn trở bước đường tiến thân của Ngài. Vả lại, thời bấy giờ các vua chư hầu muốn lấn quyền Thiên Tử, các quan Đại Phu th́ lấn quyền các vua chư hầu mà đường hướng chủ nghĩa của Khổng Tử th́ cố tôn phù nhà Chu, giảm quyền thế các nước chư hầu và tôn quyền các vua chư hầu để giăm quyền các quan đại phu. Ngài muốn sắp đặt việc xă hội theo một hệ thống phân quyền. Ai phải ở vào địa vị ấy, từ lớn xuống nhỏ, từ dưới lần lượt tiến quyền lên trên theo thứ trật " tiệm tiến ". Trong Luận Ngữ, Ngài đă tŕnh bày : " Thiên hạ hữu đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự Thiên Tử xuất ; thiên hạ vô đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự chư xuất ", nghĩa là : Thiên hạ có đạo th́ việc lễ nhạc chinh phạt do ở Thiên Tử mà ra ; thiên hạ vô đạo th́ việc lễ nhạc chinh phạt ở các chư hầu mà ra. Và quan niệm chính nhân của Ngài về chiến trường như sau : " Thiên hạ hữu đạo, tắc chinh bất tại Đại Phu ", nghĩa là : Thiên hạ có đạo, việc chính trị không ở quan Đại Phu. V́ quan niệm như thế nên bảo sao Ngài đi đến đâu không bị từ khước đến đấy cho được ! Ngài đă phản đối và đi ngược lại quyền lợi của vua chư hầu và quan Đại Phu các nước. Người ta tiếp rước Ngài không phải v́ trung thực với ḷng họ, mà nói đúng hơn là v́ sự lịch sự xă giao trên danh nghĩa của một quốc gia đối cới người hiền sĩ. Ngài hành đạo theo một triết lư nhân sinh " Động ". Làm trai phải hoạt động giúp ít cho đời, trả nợ đời. Lư do đó giúp Ngài đeo đuổi măi nghiệp của người : Ra giúp đời, hành đạo. Hơn nữa, trước thời đại Xuân Thu (722-480 trước Tây Lịch Kỷ nguyên), nước Tàu rơi vào t́nh trạng bi đát rối ren, ḷng người hoang mang cho một viễn tượng xa mờ của quốc gia khuynh đảo. Nhân tâm ly tán, đạo lư suy đồi càng ngày càng rơ rệt bằng giặc giă, chiến tranh tàn khốc khắp nơi. Những người yếu thế, cô đơn, có học thức... đành bất lực, xuôi tay cho hoàn cảnh và cũng từ đấy chủ nghĩa yếm thế manh nha. Nhóm người nầy quan niệm đời đáng chán, con người muốn sống có ư nghĩa cần phải lấy sự nhàn lạc làm gốc. Lại có nhóm người háo thắng khác họ theo cuộc sống " động " quá khích, không cương thường, không đạo lư và có thể xếp loại hạng người nầy vào chủ nghĩa phá hoại. Đương trước t́nh thế gieo neo không lối thoát nầy, Khổng Tử đề xướng trái ngược lại phương châm yếm thế và chủ nghĩa tiêu cực bằng một triết lư hành động theo chủ nghĩa tích cực để cứu thế, giúp đời ra khỏi cơn khủng hoăng, lầm than. Muốn vậy, phải làm thế nào cho mọi người đều lấy đạo làm người làm kim chỉ phương hướng tiến. Riêng Ngài, Ngài lấy việc giáo hóa và sự canh cải chính trị đặt lên hàng đầu chương tŕnh hoạt động, làm lẽ thanh cao. V́ Ngài nghĩ rằng ai ai sinh ra ở đời đều phải có nghĩa vụ đối với đời. Do đó, ai trốn tránh việc đời là kẻ trái đạo. Nghĩ bao nhiêu Ngài càng muốn xông vào đời để cải trị bấy nhiêu. Nào ai có chịu nghĩ thế cho Ngài. Người ta chỉ căn cứ vào sự thất bại hiện hữu của Ngài để xét đoán và chê trách thậm tệ : " tri kỳ bất khả vi, nhi vi chi ", nghĩa là : biết không thể làm được mà cứ làm... ( Luận Ngữ : Hiến Vấn 14 ). Hoặc như : " Thao thao giă, thiên hạ giai thị giă, nhi thùy dĩ dịch chi ", nghĩa là : ùa ùa như nước chảy một chiều, thiên hạ đều thế cả, ai mà theo ḿnh để sửa đổi được loạn ra trị (Luận Ngữ : Vi tử). Xem thế, người đời đâu có hiểu rằng Ngài quan niệm rằng đối với việc thiên hạ kẻ có tài, có chính khí không lúc nào là không có thể làm việc để ích lợi cho đời. Ngài lẳng lặng để kiểm xét lại việc làm của ḿnh, và nếu có nói th́ Ngài đă nói với các đệ tử thân tín của Ngài : " Thiên hạ hữu đạo Khâu bật dữ dịch giă ", nghĩa là : Thiên hạ có đạo th́ Khâu nầy c̣n dự đến việc thay đổi làm ǵ. (Luận Ngữ : Vi Tử 18). Bấy nhiêu quan niệm, sự nhiệt tâm đối với đời, hành đạo giúp người, đă un đúc trong Ngài một hoài bảo cao cả, trọng đại lư chứ không ham muốn danh lợi " nổi " tầm thường. Ngài không làm một ông thầy an phận cao thượng mà chỉ muốn t́m dịp xuất chính hành đạo. V́ thời buổi quyết liệt chiến tranh muốn thay đổi thiên hạ tất phải lấy quyền thế để ăn to nói lớn mới may ra thành công chứ không thể dùng lời nói suông được. Ngài đă xác định một niềm tin : " Cẩu hữu dụng ngă giă, cơ nguyệt nhi dĩ khả giă, tam niên hữu thành ", nghĩa là : Nếu ai dùng ta th́ trong một năm đă khá, ba năm ắt thành (Luận Ngữ : Tử Lộ). Nhưng trong bao nhiêu lần luân lạc thế mà niềm tin của Ngài vẩn chỉ ở trong ước vọng mà thôi, v́ không ai giúp Ngài đi vào chính giới để Ngài có phương tiện thi hành đạo nghĩa của Ngài. Năm Ngài được 68 tuổi, sau lần cuối cùng kềm chân ở nước Vệ trong một khoảng thời gian dài đến 5, 6 năm, th́ Quí Tôn Ph́ bên nước Lỗ cho người đem xe bồ luân đón Ngài về. Tính lại thời gian Ngài xa nước Lỗ đến nay đă ngót 14 năm. Bấy giờ, Ngài đă già và Ngài không cầu làm quan nữa. Ngoài việc chăm sóc và dạy dỗ học tṛ, Ngài sang định Lễ Kư, Nhạc Kư, Kinh Thi, Kinh Thư, phê b́nh Kinh Dịch. Học tṛ theo học Ngài càng ngày càng đông, tính có tới 3.000 người. Nhưng trong số nầy được Ngài để ư và thương quư nhất chỉ có được 72 người tinh thông được lục nghệ. Năm 477 trước Tây Lịch Kỷ nguyên, Ngài soạn xong sách Xuân Thu là sử kư nước Lỗ để bày tỏ cái đạo của Ngài về đường chính trị. ĐƯỜNG VÀO THIÊN THU CỦA KHỔNG TỬ Những bước chót của cuộc đời Ngài tuy trên đường sĩ hoạn đă cho Ngài một ngán ngẩm ê chề song cũng từ đấy Ngài đă dừng chân an nghĩ để khổ tâm luyện khí tạo được những bước đi vững vàng bất tử trước thời gian. Kể từ khi Ngài được Quư Tôn Ph́ rước về nước Lỗ đến mùa xuân năm Canh Thân nhằm năm thứ 39 đời vua Kinh Vương nhà Chu, trong khoảng thời gian nầy Ngài chuyên tâm chỉnh lư sách củ, soạn sách và dạy học tṛ, tạo được một sự nghiệp lẩy lừng có ảnh hưởng sâu rộng măi măi với hậu thế. Phải nói rằng tại Trung Quốc, thời Trung Thu, hạng thường dân không có cơ hội được giáo dục, chính Khổng Tử làm một việc phá lệ trong lịch sử Trung Quốc. Ngài phổ biến giáo dục cho tất cả mọi người, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Do đó, hạng người nào trong xă hội cũng có thể là đệ tử của Ngài. Tổng số môn đệ chính thức của Ngài lên tới 3.000 người, và trong số nầy có 72 người tinh thông lục nghệ, được mệnh danh là " thất thập nhị hiền " đều được người đời sùng bái và tôn lên chức thầy. Nhờ sự phá lệ và sáng kiến của Khổng Tử mà hạng thường dân trong nước được có cơ hội mở mang kiến thức, trau dồi đạo đức. Dạy học tṛ, Khổng Tử đều dùng sách vỡ đời xưa như : " Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ... " Ngoài việc mở mang trí hóa cho học tṛ bằng sách vở, Ngài c̣n chú trọng đến đức tính và phẩm cách của từng môn đệ. Trong sách Luận Ngữ có câu : " Tử dĩ tứ giáo : văn, hạnh, trung, tín " (Thầy dạy bằng 4 điều : văn, hạnh, trung, tín). Trong 4 điều nầy có văn là thuộc về đọc sách, c̣n ba điều kia thuộc về sự hun đúc phẩm cách và đức tính của con người. Dù mỗi môn đệ đều phải " bác văn " (học rộng biết nhiều), nhưng cần phải " ước lễ " (giữ trong khuôn khổ lễ phép). V́ lẽ ấy trong sách dạy học của Khổng Tử như Luận Ngữ phần nhiều chú trọng về phẩm cách và đức tính của con người. Ngay đến sự " học thi " và " học lễ ", không những chỉ chú trọng việc nghiên cứu về văn học, lịch sử mà c̣n phải chú ư nhiều về cách lập thân và hành sự nửa. Ngài đă nói : " Bất học thi, vô dĩ ngôn " ( không học Thi th́ không biết cách ăn nói). Và Ngài lại nói : " Bất học lễ, vô dĩ lập " (không học lễ th́ không biết cách lập thân). Xem đó, ta thấy rằng sự giáo dục của Khổng Tử nhằm đưa con người có đầy đủ đức tính tốt trong xă hội, có một nhân cách hoàn hảo. Thế nên, ta có thể nghĩ rằng đường t́nh có trăm muôn ngh́n nẽo, Khổng Tử đă đi vào tâm hồn nhân thế bằng tất cả trăm muôn ngh́n nẽo đó thật thâm thúy, kỳ diệu và sung măn nhất. Bảo sao Ngài chẳng là vạn thế sư biểu cho được ? Người ta ngưỡng vọng công đức Ngài, tôn thờ Ngài như là một thánh sống ! Cho nên đối với Ngài thiên hạ đă gắn liền vào đó một đời sống nồng nhiệt hơn t́nh của các con đối với người cha gương mẫu. Nhân một hôm người nước Lỗ đi săn bỗng bắt gặp con Kỳ Lân què chân bên tả, chân trước, và ai nấy đều cảm thấy buồn bă v́ cho là điềm chẳng lành cho bá tánh. Nghĩ như vậy nên họ trịnh trọng van vái và đem Kỳ Lân ra thả ngoài đồng. Nghe tin đồn, Ngài đến nơi xem hư thực. Khi trông thấy Kỳ Lân Ngài hoăng hốt kêu lên : " Kỳ Lân làm ǵ thế ". Từ lúc đó Ngài bưng mặt khóc thảm thiết. Trên đường về Ngài uể oải, suy tư và than lên câu nói độc nhất : " Ngô đạo cùng hỉ " (Đạo ta cũng vậy !). Và trang sách cuối cùng của quyển Xuân Thu do Ngài biên soạn được kết thúc bằng câu chuyện Kỳ Lân nầy, với một câu nói buông thỏng vô vọng đó. Hai năm sau ngày gặp Kỳ Lân què chân, đến tháng tư ngày Kỷ Sửu, năm thứ 16 đời vua Ai Công nước Lỗ (tức năm 479 trước Tây Lịch Kỷ nguyên), Ngài từ giả cơi đời để đi vào đường Vĩnh Cửu. Chuyện Lễ Kư kể rằng : một hôm, Ngài thức sớm đi tiêu dao trước cửa thăm tất cả hoa kiển sân nhà, tay kéo lê cây gậy trúc mà hát lên rằng : " Thái sơn kỳ hồi hồ ? Lương mộc kỳ hoại hồ ? Triết nhân kỳ nuy hồ ? " (Núi Thái Sơn có lẽ đổ chăng ? Cây hương mộc có lẽ nát chăng ? Người triết nhân có lẽ nguy chăng ?). Hát xong, Ngài vào ngồi tĩnh tọa giữa cửa nhà. Nghe sư phụ hát những lời buồn thảm, thầy Tử Cống vội vàng đến bên Ngài cung kính hỏi thăm nguyên lư. Ngài đem chuyện nằm chiêm bao đoán điềm thấy rằng ḿnh sắp chết kể lại rành mạch cho người học tṛ quư nhất nghe. Và Ngài bắt đầu nhiễm bịnh đến 7 ngày sau th́ mất. Người ta chọn một nơi thanh khiết có cây cối, phong cảnh sầm uất, tôn nghiêm để xây mộ Ngài. Đó là một nơi an nghĩ cuối cùng của vị Vạn thế Sư biểu lấy tên là Khổng Lâm, cách huyện Khúc Phụ 2 dậm, thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc. Ngài ra đi lần nầy là thiên thu vĩnh biệt, 72 người hiền mất đi người thầy yêu quí nhất đời và nhân thế mất đi một vị thánh gương mẫu độc nhất vô nhị. Học tṛ th́ thương khóc thảm thiết. Ai ai cũng tâm tang, là để tang ḷng chứ không mặc đồ tang sức bên ngoài, ba năm. Và bên mộ Ngài có hơn một trăm người làm nhà ở để quạt mồ cho đến hết tang. Trong số học tṛ thương quư nhất của Ngài, Thầy Tử Cống ngày đêm ở bên mồ đến hết sáu năm mới thôi !... CHÂN DUNG KHỔNG TỬ Vị Vạn thế Sử biểu của nhân loại chắc phải có một h́nh tượng phi phàm, một nhân cách đức độ, trang nhă hơn người. Nói về h́nh dáng Ngài sách Khuyết lư tả lại rất rơ : " Người cao lớn tầm thước, đặc điểm của tướng ấy là ngũ lộ : mắt lồi, lỗ mũi rộng, lộ hầu, tai bạt, hở răng. Mặt to và có những vạch như quả dưa chín, bàn tay hổ, ngực rùa, râu rậm, mồm rộng, miệng nói tươi, đi nhanh. " Nói về tính t́nh Ngài sách Luận Ngữ chép : " Tử ôn nhi lệ, uy nhi bất mănh, cung nhi an " : Phụ tử ḥa mă nghiêm, uy mà không dữ, kính cẩn mà an vui tự nhiên " (Thuật Nhi, VII). Nhất là tính t́nh Ngài bao giờ cũng ung dung, vui vẽ tự nhiên " Tử chi yến cư, thân thân như giă, yêu yêu như giă " : Phu tử lúc ở dưng th́ h́nh dáng khoan thai, mặt mày tươi tỉnh. " Nói về cử chỉ của Ngài trong sách Luận Ngữ, Thiên Hương Đảng đă nói rơ như sau : Lúc nào Ngài cũng tỏ ra đức độ của một người mực thước gương mẫu để hướng dẫn người khác. Trong gia đ́nh cách ăn, uống, nằm, ngồi hết sức chững chạc, ngay chính và khiêm tốn. Ra ngoài đường hoặc đến các nơi miếu đường, đối với vua quan, Ngài rất kính cẩn, cư xử đứng đắn theo khuôn phép lễ nghi. Bất kỳ đối với ai Ngài cũng cẩn thận, suy kỷ trước khi nói và hành động. Hành sự của người có chính khí là phải giữ chữ tín trong việc đối xử, giao tiếp với nhau không dám sai một phân một li. Có như thế mới bày tỏ được đạo người quân tử. V́ khi muốn kẻ khác theo ḿnh th́ bất cứ lúc nào, trường hợp nào cũng phải nghĩ rằng ḿnh là đối tượng, là mục tiêu gương mẫu cho kẻ khác. Bẩm sinh Khổng Tử vốn là người có tính cẩn thận. Hơn nữa, Ngài rất tha thiết đến việc Lễ Nhạc nên trong mọi trường hợp tế tự Ngài chọn ngày và giờ, chổ và lễ vật cũng như ngay cả chính người tế tự phải hết sức giữ cho tinh khiết và thành kính. Theo Ngài, có lễ được như thế th́ thần minh mới chứng giám. Đối với vận mệnh của quốc gia dân tộc lại càng hệ trọng hơn. Cho nên khi có việc chinh chiến can qua hay mỗi lần có bệnh tật gieo họa đến tính mệnh con người, Ngài hết ḷng dạ đem " quách cả sở tồn làm sở dụng " để ǵn giữ bảo vệ. Thuật Nhi Luận Ngữ có câu : " Tử chi sở thận : trai, chiến, tật : những điều mà Phu Tử ǵn giử cẩn thận là việc trai giới, việc chinh chiến, việc bệnh tật. " Tính t́nh Ngài rất nhân hậu. Đối với ai Ngài không phân giai cấp mà chỉ một ḷng tha thiết, lấy đức độ, lễ nghĩa làm đầu. Với tính t́nh ấy, phàm khi thấy ai sắc diện lộ ra nét buồn rầu là Ngài cố gắng t́m cách giúp đỡ với cả tấm ḷng trắc ẩn xót thương. Điều này, Thuật Nhi đă nói đến như : " Tử thực ư hữu, tang giả chi trắc, vị thường bảo giă. Tử ư thị nhật, khốc tắc bất ca : Phu tử ngồi ăn bên cạnh người có tang, th́ ăn không no. Ngày nào Ngài đă dự buổi phúng điếu về th́ suốt cả ngày không đàn hát ". Một hôm nhân lúc thấy Khổng Tử vui, Thầy Tử Lộ, người học tṛ quư Thầy nhất đó ân cần cung kính chấp tay vái hỏi Ngài rằng: " Đệ tử kính mong thầy cho biết cái chí của Thầy như thế nào ? " Ngài nh́n đứa học tṛ yêu quư bằng một tia mắt dịu hiền nhưng hết sức nghiêm trang, và ôn tồn dặn bảo đứa học tṛ cưng ấy : " Lăo giă an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giă hoài chi " : Lấy sự yên vui mà đối với kẻ già cả, lấy sự tin (tín nhiệm) mà đối với bạn bè, lấy sự yêu mến mà đối xử với các trẻ thơ (Luận Ngữ : Công dă tràng). Có lẽ nhờ tính thích đàn hát và nhờ tiếng đàn tiếng hát mà ḷng Ngài đă hướng đến chổ thiện nhất, cao quư nhất ? Nói về tính ham mê đàn hát của Ngài để Ngài giữ được sự thư thái ôn ḥa vui vẽ và có được sự bền chí dẽo dai để làm việc đến nơi đến chốn, trong Thuật Nhi Luận Ngữ có chép : " Tử tại Tề, văn thiều tam nguyệt bất tri nhục vị. Viết : " bất đồ vi nhạc chi chí ư tư giă " Dịch rằng : Phu tử lúc ở nước Tề, học nhạc Thiều ba tháng, ăn không biết mùi thịt. Ngài nói rằng : Chẳng ngờ học nhạc vui đến được như thế. Và sách ấy chép thêm : " Tử dữ nhân ca nhi thiện, tất sử phản chi, nhi hậu họa chi ", nghĩa là : Phu tử đàn hát với ai, người ta hát câu nào hay th́ Ngài xin hát lại để Ngài họa theo. Việc học đối với Ngài thật to rộng như rừng như bể " Rừng nhu bể thánh ". Muốn cho ḿnh có được bộ óc uyên thâm để thực thi đạo hạnh, Ngài rất hiếu học và dốc tâm suy nghĩ những lời giáo hóa của cổ nhân, v́ Ngài nghĩ rằng cổ nhân là người đi trước ban bố cho ḿnh bài học kinh nghiệm mà ai là kẻ hậu sinh th́ phải lấy sự xứng đáng mà nhận lănh. Ngài đă nói : " Ngă phi sinh nhi tri chi giả giă, hiếu cổ, mẫn dĩ cầu chi giả giă " : Ta không phải là người sinh ra đă biết, chỉ là người thích đạo của thánh hiền đời trước, cố sức mà cầu lấy được. Và những điều ǵ Ngài học được ở cổ nhân hay ở người khác, Ngài cố tâm suy nghĩ để t́m hiểu cặn kẻ đến gốc rể, đến nguyên lư. Và sau khi đă t́m thấy được chân lư, Ngài quyết tâm đem điều ấy ra để huấn dạy người khác một cách tận t́nh. V́ theo Ngài phương châm chính đạo phải là suy nghĩ tận tường, học hỏi say mê, dạy người thích thú, ba điều đó không thể thiếu sót ở con người giữ đạo. Ngài đă nói : " Mặc nhi thức chi, học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện, hà hữu ư ngă lai ", nghĩa là : Thầm lặng nghĩ ngơi mà biết mọi lẽ, học mà không chán, dạy người không biết mỏi, ba điều ấy ta có điều ǵ là hơn người đâu. Sự học đối với Ngài ngoài ư nghĩa rộng răi của nó đă cho Ngài nguyên ư của sự khiêm nhượng, nhỏ bé để kiên tâm tŕ chí sáng tạo măi măi, sự học c̣n có hai tác dụng hết sức quan trọng đối với người theo sự học. Một là những điều hay, điều phải sẽ giúp cho tâm hồn, tư tưởng sáng suốt, kiến thức tăng trưởng. Hai là những điều dỡ, điều tối tăm, trái lẽ... cũng sẽ giúp ta sửa ḿnh và t́m một phương hướng khác hơn để đi cho đẹp đẽ. Do đó sự học của Ngài không quy về một tiêu điểm g̣ bó nhất loạt. Ngài quan niệm một cách hết sức tự do là bất cứ đâu đâu, trong nhà ngoài đường, ở lớp học nơi nào cũng có thể học hỏi lớn khôn được. V́ thế Ngài bất nhất không theo học nhất định một người nào, mà người nào, dù hay, dù dở cũng có thể là thầy học của Ngài được. Bởi vậy Thầy Tử Cống đă nói " Phu tử yên bất học, nhi diệc hà thường sư chi hữu " : Không có điều ǵ là Phu tử không học, nhưng Ngài không nhất định học một thầy nào (Luận Ngữ : Tử Trương). Ngài nói : " Tam nhân hành, tất hữu ngă sư yên, trạch kỳ thiện giă nhi ṭng chi, kỳ bất thiện giả nhi cải chi " : ba người đi với nhau, tất có một người là thầy ta, chọn người hay mà bắt chước, người dở mà sửa ḿnh. Hơn nữa đức chính của người quân tử là lúc nào cũng trau tâm sửa ḿnh. Không ǵ khổ sở cho bằng khi Ngài biết ḿnh dở mà không sửa được cái dở đó, cũng như thấy nghe điều hay muốn bắt chước mà không được Ngài bộc lộ điều đó như một người đang khổ tâm v́ bệnh lo cứ ám ảnh măi khi tự nhận ḿnh chỉ có thể là một hạt nước nhỏ trong đại dương to lớn : " Đức chi bất tu, học chi bất giảng, văn nghĩa bất năng tỉ, bất thiện bất năng cải, thị ngô ưu giă " : Đức của ḿnh không sửa cho tốt, học của ḿnh không giảng cho rỏ, nghe điều nghĩa mà không theo được, nghe điều dở mà không đổi được, đó là cái lo của ta vậy. Muốn thực hiện được những điều trên, Ngài quyết tâm suy lư và học hành. Việc học hành Ngài xem nó như là một điều hệ trọng trong cuộc sống tinh thần của Ngài. Không bao giờ Ngài dám xao lăng. Học th́ phải học cho đến nơi đến chốn. Biết phải biết cho tận tường. Với vấn đề mới lạ, cao siêu nếu là người phàm mắt thịt đầy chán nản th́ họ sẽ lờ và viện lư do từ chối, không chịu suy lư. Nhưng Ngài th́ ngược lại, Ngài tự cho vấn đề nào cũng có thể biết được miễn là ḿnh cố công t́m ṭi, suy lư có phương pháp. Do đó, Ngài không bị mặc cảm chi phối, không bị con ma an phận lười biếng quấy rầy. Ngài đă từng bảo : " Cái hữu bất tri nhi tác chi giă, ngă vô thị giă. Đa văn, trạch kỳ thiện giă nhi ṭng chi, đa kiến nhi chí chi, tri chi thứ giă " : Có người chẳng biết rỏ nghĩa lư ǵ đă làm, chứ ta th́ không thế. Nghe nhiều, rồi chọn điều hay mà theo, thấy nhiều và nhớ lấy, để xét cho tận tường cái hay cái dở, th́ cũng đă cho là biết vậy. Với bao nhiêu đức tính cần thiết đó, Ngài đă có được, đáng lẽ Ngài sẽ theo luật thường t́nh mà đâm ra kiêu hoạnh. Nhưng với bậc đáng ca tụng tôn sùng là chí thánh chí nhân như Khổng Tử, Ngài đă giữ lể khiêm tốn và không bao giờ dám nhận ḿnh là thánh, là nhân cả. V́ Ngài nghĩ rằng : " Nhược thánh dữ nhân, tắc ngô khởi cảm, ức vi chi bất yếm, hối nhân bất quyện, tắc khả vị vân nhĩ dĩ hỹ " : Nếu bảo ta là thánh là nhân th́ ta sao dám đương, nhưng ta làm việc thánh việc nhân không chán, dạy người không mỏi, có thể bảo ta được thế mà thôi. Việc dạy học tṛ của Ngài không quá khắt khe. Ngài đă từng phá lệ, san bằng giai cấp cho nên " sự giáo hối của Ngài có cái chủ ư làm cho sáng cái đức của người ta, chứ không những chỉ đem cái biết của ḿnh mà trao cho người ta. Ngài dùng cách làm cho người ta tự ḿnh hiểu lấy mọi lẽ phải trái. Có người hỏi Ngài về việc thâu nhận học tṛ. Ngài bảo : " Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối yên " : Từ người đem lễ bó nem trở lên, ta chưa từng không dạy ai bao giờ. Đối với người cùng đinh quê kệch khi hỏi Ngài có biết ǵ không, Ngài không tức bực, không lấy cái biết sâu rộng của ḿnh ḷe bịp, không bao giờ lấy lư của kẻ hiểu biết mà áp đảo để tỏ ra ḿnh sành sỏi, thông thạo mà Ngài khiêm nhường tỏ ra cố gắng giải thích làm thế nào cho người quê kệch đó hiểu được vấn đề muốn nói, muốn hỏi một cách thỏa mản mới thôi. Đó thật là một lối giáo hóa đắc nhân tâm không chạm đến ḷng tự ái hay gây sự mặc cảm cho kẻ khác mà mở rộng được cái biết cho kẻ khác vậy. Có lần Ngài vui vẽ kể lại cho các đệ tử Ngài nghe một câu chuyện mà Ngài cho là một sự thành công lư thú trong đời giáo dục của Ngài. Ngài kể : " Ngô hữu tri hồ tai ? Vô tri giă. Hữu bĩ phu vấn ư ngă, không không như giă, ngă khấu kỳ hưởng đoạn nhi kiệt yên " : Ta có biết ǵ không ? Không biết ǵ cả. Có đứa quê kệch hỏi đến ta, ta không không như không biết ǵ, đem đầu đuôi trước sau mà nói, làm cho người ấy biết hết mọi lẽ. Ngài tự xem ḿnh là người đi gieo giống để chờ giống tốt nẩy mầm thêm nhiều, thêm tốt hơn nữa. Muốn cho được kết quả, nếu người gieo giống th́ phải đúng phương pháp, nhưng Ngài là người truyền bá tư tưởng, đạo lư, Ngài phải tỏ ra gương mẫu để người được Ngài huấn dạy bắt chước noi theo. Việc ǵ của Ngài làm, Ngài muốn bao giờ cũng quan minh chính đại và quyết không làm điều ǵ mà không cho mọi người biết đến. Trong một lần giửa đông đủ các đệ tử của Ngài, Ngài thân mật nói với các học tṛ Ngài : " Nhị tam tử dĩ ngă vi ẩn hồ ? Ngô vô ẩn hồ nhĩ ; ngô vô hành nhi bất dữ nhị tam tử giă, thị Khâu giă " : Các anh tưởng ta có giấu ǵ các anh chăng ? Ta không giấu các anh điều ǵ cả, ta không làm điều ǵ mà không cho các anh biết. Ta thực thế đấy. Nét ôn ḥa, tâm hồn thành thực của con người gương mẫu đó đáng được mọi người tôn sùng là Vạn thế Sư biểu hẳn là điều không ai phủ nhận. Thời bấy giờ nhằm lúc Xuân Thu điên đảo thế mà đức chính của Ngài đă cảm hóa đa số thiên hạ, bằng chứng là hơn 3.000 đệ tử của Ngài ai cũng đạt được tính nết, tư tưởng thành nhân và yêu kính ngài hơn cha đẻ. Sự có mặt của người hôm nay ai lại chẳng nghĩ thời đại đang sống nầy có khác ǵ thời đại Xuân Thu mà đức Vạn thế Sư biểu Ngài đă sống ? Nếu thời gian đă chứng thực sự có mặt của Khổng Tử với những lời khuôn vàng thước ngọc của Ngài là một liều thuốc ứng hiệu xoa diệu nhanh chóng được cơn bệnh xâu xé thấp hèn của nhân loại, th́ trước bàn thờ Kim Cổ danh nhân hẳn hậu sinh chúng ta không ngần ngại đốt nén hương ḷng hoài vọng h́nh ảnh và tư tưởng của vị tiền bối khả kính Khổng Tử như một vị thánh sống và trọng thể đặt người bất tử ngự lên tầng cao tâm linh của ḿnh mà tôn thờ Một Đạo Sống Thanh Cao. HọC THUYẾT KHỔNG TỬ B-I CẢNH LịCH SỬ Khổng Tử ra đời trong hoàn cảnh suy vi nhất : Giặc giă tứ tung, luân thường đảo lộn, đạo lư nát tan. Thời đại hoang mang nầy sử Tàu chép là Xuân Thu thời đại. Kể từ nhà Chu lên nắm ngôi thiên tử, nước Tàu có hơn 70 chư hầu do chế độ phong kiến mà nhà vua áp dụng. Các nước nhỏ nầy vua phong cho các công thần và những người tron g vương tộc. Mỗi chư hầu đều được tự chủ miễn là hàng năm phải theo lệ triều cống cho vua Chu. Và mỗi khi có binh biến, các chư hầu phải chịu dưới mệnh lệnh thiên tử để cùng đem quân họp mặt dẹp giặc. Theo sử liệu th́ nước Tàu lúc bấy giờ quanh quẩn trong phạm vi sông Hoàng Hà, diện tích vào khoảng chừng 5, 6 tỉnh về phía Bắc nước Trung Quốc ngày nay. C̣n các chư hầu lớn th́ bằng diện tích vài ba tỉnh nhỏ của nước Việt Nam ta, hoặc các chư hầu nhỏ th́ diện tích bằng một vài huyện ta thôi. Lúc mới và thịnh vượng th́ sự điều khiển được trơn bén, luật lệ được nghiêm minh, nhưng từ khi nhà Chu bắt đầu xuống dốc và Thiên Đô về phía Đông đất Lạc Ấp, mệnh lệnh của Thiên Tử không c̣n ai tuân theo nữa th́ các nước chư hầu lại xâu xé lẫn nhau, phân chia ra đến 160 nước. Bấy giờ, không c̣n ai nhắc đến đạo lư, cương thường. Người ta chỉ biết tranh sống bằng cách " Cá lớn nuốt cá bé ", mạnh thắng yếu. Các nước có uy thế nhất trong các nước chư hầu thời bấy giờ là : Tề, Tấn, Tống, Tần, Sở, Ngô, Việt v.v... Các nước nầy mặc t́nh thôn tính lẫn nhau để tranh giành ảnh hưởng, gây thành những cuộc tương tàn tương sát, thây phơi máu đổ, nhân dân đồ thán. Lúc nầy đạo nghĩa chỉ c̣n là một bóng mờ sau lớp mây mù dục vọng. Danh lợi, địa vị, tiền tài trong thời đại chiến tranh là một chất xăng bén nhạy nhất để tiêu hủy tất cả công tŕnh kiến tạo đạo lư ngàn xưa. Nhưng khi máu đổ, thây phơi chồng chất như sông như núi và dục vọng, ước mơ của con người đâu không thấy ánh sáng mà càng lúc sự điêu linh khốn khổ càng áp lực khó thở, chừng ấy con người mới rơi về ư thức nhân bản " Nhân chi sơ, tánh bản thiện ". Do đó các học thuyết mới có dịp mở mắt chào đời và có cơ hưng tịnh mănh liệt. May thay, trong lúc tranh sáng cho cuộc đời một vị thánh xuất hiện mang tin lành đến mọi người : đó là Đức Khổng Tử. Ngài cố tâm suy nghĩ, học hỏi qua kinh nghiệm bản thân và quyết tâm làm nhà cách mệnh tiền phong trong cuộc chiến tâm lư giúp quốc gia xă hội một đời sống trật tự, an lành. Người đem tất cả sự hiểu biết của ḿnh với một tấm ḷng sùng bái cổ nhân để phát huy lẽ đạo thánh hiền, lập nên một học thuyết có hệ thống mục đích lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín giáo hóa người, lấy cương làm nền cho trật tự xă hội mà sau nầy người ta đặt tên cho học thuyết đó là Nho giáo. B-I CẢNH TÍN NGƯỠNG : Kể từ lúc khai thiên lập địa cho đến kỷ nguyên đầu, dân tộc Trung Hoa sống bằng nông nghiệp, sinh hoạt ở lưu vực sông Hoàng Hà. Đời sống tín ngưỡng đầu tiên mang trọn vẹn dấu vết thần thoại, hoang đường. Câu chuyện thần thoại được truyền tụng nói về việc khai thiên lập địa như sau : Trước khi vũ trụ chuyển ḿnh khai thiên lập địa, vũ trụ chỉ là một khoảng trống rỗng vô h́nh. Sau một thời gian dài, giửa khoảng không đó xuất hiện một cái h́nh vĩ đại trong có thai nghén một người to lớn, khỏa mạnh và sau khi người ấy chào đời không biết sống đến bao lâu, nhưng theo truyền thuyết th́ tên người ấy là Bàn Cổ. Lúc người ấy sắp chết, vũ trụ ảnh hưởng theo đó mà biến chuyển kỳ lạ. Chuyện kể rằng tiếng kêU cuối cùng của người sắp chết, Bàn Cổ, biến thành tiếng sấm, hơi thở cuối cùng th́ thành ra gió, băo, mắt trái trở thành mặt Trời (Thái Dương), mắt phải là mặt Trăng ; mạch máu biến thành sông ng̣i, tóc biến thành rừng cây và xương thịt biến ra đất, đá. Đó là ư niệm tín ngưỡng đầu tiên của dân tộc Trung Hoa. Tiếp theo đó th́ vũ trụ biến chuyển không ngừng. Con người xuất hiện dưới ánh mặt trời, tràn lan khắp mặt đất. Tùy theo phong thổ, địa thế mỗi dân tộc sống biệt lập, khác hẳn nhau. Họ bắt đầu xây dựng cuộc sống tập thể từng đoàn, nhóm và cùng nhau tranh đấu cho sự sống c̣n bằng cách khai thác những nơi màu mỡ hoang vu để cầy cấy. Nhất là các lưu vực của sông Hoàng Hà. Trước kỷ nguyên Tây Lịch, Trung Hoa cũng như hầu hết các dân tộc khác đều sùng bái thiên nhiên. Họ quan niệm rằng mỗi bộ phận của thiên nhiên đều có linh hồn, linh hồn đó không biết được lẽ sống của loài người nên trước cuộc sống quá chật vật, gian nan, họ tôn thờ cúng bái và đặt cho những linh thiên đó là thần linh như Thần Thái Dương, Thần Mặt Trăng, Thần Gió, Thần Lửa, Thần Sấm, Thần Chớp, Thần Núi, Thần Sông... Vị có quyền uy tối linh tối thượng, có quyền tạo sinh tạo sát cho vạn vật muôn loài là ông Thiên. Nếu ở Thiên Đ́nh gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, ở hạ giới gọi là Hoàng Đế. Người ở chức vị Thượng Đế rất to lớn và công minh. Trong kinh thư có nói : " Duy Hoàng Thượng Đế giáng trung vu hạ dân " : Thượng Đế rất lớn ban sự công b́nh không thiên lệch xuống cho nhân dân ". Vị Thiên nầy rất trừu tượng nhưng là năo tủy cai quản cả các Thần, cai quản cả luật pháp của người và vật : " Thiên sinh chúng dân hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh ghi, hiếu thị ư đức : Trời sinh ra dân chúng, hễ có vật là có phép tắc, dân giữ cái tính thường c̣n ; yêu báu cái đức tốt đẹp ". Ngoài sự tôn sùng thờ cúng linh thần trên, người Trung Hoa c̣n thờ phụng ông bà tổ tiên và các anh hồn của những anh hùng vị quốc vong thân một cách trang trọng nữa. Đó cũng là những nét cố hữu tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Nguồn gốc của giới NHO : Chữ Nho : Nh́n qua chữ Nho ta thấy sự cấu tạo chữ Nho gồm có hai phần : 1.- Gồm : trước tiên là chữ Nhân, nghĩa là Người 2.- Với : Đứng cạnh sau là chữ Nhu, nghĩa là Cần yếu. Nho sĩ : Sở dĩ có sự ghép nối như thế để làm danh hiệu cho giới Nho sĩ là v́ thành phần của giới nầy gồm những người ngày xưa xuất thân từ ḍng dơi quư tộc. Sau nhiều cuộC thay ngôi đổi vị, họ bị sa sút mất hết địa vị trong xă hội và phải tự lực tự tài để mưu sinh như thường dân. Bởi thế nên hạng Nho sĩ được đặt vào giai cấp Trung lưu, đứng giữa hai cấp đối cực : Giai cấp quư tộc (Thượng lưu) và giai cấp nông dân (Hạ lưu). Giới nầy do đó thông suốt lục nghệ và sinh nhai bằng nghề : Lễ, Nhạc, Sạ, Ngự, Thư, Số. Thời kỳ hưng thịnh nhất của giới nầy phải kể vào khoảng cuối thời phong kiến Tây Chu. Học phái Nho chào đời : Người khai sinh cho nền triết học Nho là Khổng Tử. Sự có mặt của nền triết học nầy bắt đầu từ năm 551-479 trước Tây Lịch kỷ nguyên. Phải nói triết học Nho là hệ thống tư tưởng truyền thống được coi như tư tưởng chính thống gần 25 thế kỷ của dân tộc Trung Hoa. Đă có một quá tŕnh lịch sử lâu dài như thế bảo sao tư tưởng ấy chẳng thấm nhuần sâu sắc vào đời sống cá nhân cũng như đoàn thể nhân dân Trung Quốc cho được. Nh́n vào nền văn minh Trung Quốc ta phải nghĩ rằng tư tưởng Nho đă khuôn đúc dân tộc tính Trung Hoa về cả phương diện sinh hoạt kinh tế, chính trị và xă hội. Và ta có thể kết luận rằng triết học Nho là nền tảng triết học chính yếu ở Đông phương nầy vậy. TRIẾT HọC CỦA KHỔNG TỬ Nguồn gốc : Triết học của Khổng Tử không phải chỉ là kết quả sáng tạo mới mẽ toàn diện của Ngài mà thuộc về loại tư tưởng truyền thống. Không bao giờ Khổng Tử cho ḿnh là một nhà sáng tác phát minh. Ngài tự nhận cho chúng ta biết rằng Ngài chỉ thuật lại những tư tưởng của tiền nhân một cách mạch lạc, hệ thống mà thôi : " Thuật nhi bất tác tín nhi hiếu cổ ", nghĩa là : Thuật lại mà không sáng tác, tin mà yêu cổ xưa. Tư tưởng triết học : Tư tưởng triết học của Khổng Tử truyền lại đến ngày nay, có thể tra cứu trong những quyển sách mà dân Trung Quốc lấy làm điển tích cổ điển như hai bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. a) Trong Ngũ Kinh có : 1._ Kinh Thi 2._ Kinh Dịch 3._ Kinh Thư 4._ Kinh Lễ Nhạc c̣n lại ở Lễ Kư 5._ Kinh Xuân Thu b) Trong Tứ Thư có : 1._ Đại Học 2._ Trung Dung 3._ Luận Ngữ 4._ Mạnh Tử Tư tưởng của Khổng Tử ngày nay được dân tộc Trung Hoa cũng như Á Đông xem như là một phương châm gồm toàn khuôn vàng thước ngọc dẫn bước đo lường cho một cuộc sống lư tưởng tiến đến an toàn. Ngài đáng tiêu biểu một nhà giáo sư kiểu mẫu muôn đời. Và với danh hiệu " Vạn thế Sư biểu " mà người đời gán cho Ngài thật không ǵ xứng đáng hơn. Không phải đợi đến Bản nhân quyền 1789 của Pháp con người mới hiểu thế nào là b́nh đẳng mà trong thời đại sơ cổ, phong kiến của Ngài, trước đấy xa xôi, Khổng Tử là cha đẽ quan niệm b́nh đẳng nói riêng cho đầu tiên lịch sử Trung Hoa và chung cho nhân loại trên b́nh diện văn hóa, giáo dục. Ngài tuyên bố ở Luận Ngữ : " Hữu giáo vô loại " : giáo dục không phân biệt giai cấp, chủng tộc giữa người với người. ĐƯỜNG VÀO TƯ TƯỞNG : Căn cứ vào Thuyết Khải truyện, ta có thể hiểu rằng triết học của Khổng Tử bao quát cả Đạo Trời, trong đó bàn về lư hệ căn bản tương quan giữa Trời và Người. Nói đến Đạo Trời Đất là luận về tạo vật thiên nhiên. Thuyết về Đạo Người là bàn đến đường lối cư xử giữa người và người trong hành vi nhân sinh xă hội : Lập thiên chi đạo viết Âm Dương Lập địa chi đạo viết Nhu dữ Cương Lập nhân chi đạo viết Nhân dữ Nghĩa Kiêm tam tài nhi lưỡng chi Nghĩa là : Thiết dựng đạo trời có nguyên lư Âm và Dương Thiết dựng đạo đất có nguyên lư Nhu và Cương Thiết dựng đạo người có nguyên lư Nhân ái và Nghĩa lư Bao hàm ba tŕnh độ của một lư mà có hai phương diện tương đối. Xem thế th́ quan niệm của Khổng Tử về vấn đề quan hệ giữa Nhân loại, vũ trụ, thiên nhiên với cá nhân con người là một hệ thống vũ trụ quan đầy đủ và nhất quán. Trong sách Luận Ngữ, Ngài bàn đến tam hệ : Trời, Đất, Người với các đệ tử Ngài : Trời có đạo Trời, vạn vật có đạo thiên nhiên và Người có đạo Người. Các đạo ấy cùng có một cái Đạo lư chi phối nhất quán mà Ngài cho đó là Đạo Nhân. Ngài nói : " Ngô đạo nhất quán dĩ quán chi " : ( Đạo của ta quan niệm có một đầu mối nhất quán ). Đầu mối ấy là Nhân. TRIẾT LƯ NHÂN _ Nhân là ǵ ? Nhân theo gốc chữ Hán gồm có chữ Nhân là người và chữ Nhị là hai. Người ở đây là người của tranh đấu, của xă hội trước cuộc sống sinh tồn nên phải là cuộc sống có từ 2 người trở lên. Do đó ư niệm của Ngài về cuộc sống có nghĩa là cô đơn, riêng rẽ như một người đại sĩ ở ẩn trong cùng cốc thâm sơn. Triết lư của Ngài là một triết lư " động ". V́ quan niệm như trên nên Ngài định nghĩa : " Nhân giă nhân dă ". Ư của Ngài muốn bảo rằng ; Kẻ nào có đức nhân là con người và ngược lại, cái đức căn bản của người là đức nhân. Trong đoàn thể cùng loại, 2 người cùng sống dĩ nhiên phải có những đức tính đối đăi cần thiết với nhau. Đó là ư niệm đấu tranh manh nha cho sự trường tồn, phát nẩy to lớn và đông đúc hơn để xác nhận ư nghĩa và sự có mặt của vũ trụ. Về điểm nầy, sách Trung Dung viết : " Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ cậy kỳ chí dă sát hồ thiên địa " nghĩa là : đạo của người lư tưởng bắt đầu từ cái đạo vợ chồng để rồi mở rộng ra đến cùng cực th́ bao quát cả trời đất. Sự tác dụng của đức tính nhân quả đă quá to tát ! Mà to tát, lớn lao thật, v́ Ngài đă bảo đức tính ấy là t́nh yêu, là nguồn của sự bất diệt. Ngài nói : " Nhân giả ái nhân " : Đức nhân là yêu người. Như vậy, Khổng Tử khi nói đến đạo Trời, đạo Đất và đạo Người, Ngài đă xác nhận 3 đường đạo ấy tất phải đồng qui tại một điểm mục tiêu là t́nh yêu, như một lời xác nhận khẳng quyết : Mọi việc trên đời nầy đều bắt nguồn đi từ t́nh cảm yêu thương kể cả ư thức độc lập và cá biệt nhất ". Và nếu hướng về cá nhân th́ những tác dụng tâm lư căn bản như T́nh, Ư và Trí, Ngài đặt T́nh đứng ở hàng đầu. Nhưng Ngài lại phân biệt một người Nhân quân tử như trên chưa đủ mà phải gồm cả Trí và Dũng nửa. Đặt vấn đề, ta thấy T́nh thuộc về nhân, Dũng th́ đứng về bên Ư chí. Ngài thường lo âu : " Quân tử đạo giả tam, ngă vô năng yên. Nhân giả bất ưu, Trí giả bất hoặc, Dũng giả bất cụ " : Đạo quân tử có ba, ta không tới được, ấy là người nhân th́ không lo âu, người Trí th́ không ngờ vực, người Dũng th́ hết sợ hải. Và : " Nhân giả tất hữu Dũng, Dũng giả bất tất hữu Nhân " : Người nhân ắt là có can đảm, người can đảm không tất nhiên là có ḷng Nhân. Bấy nhiêu đó ta đủ thấy rằng tuy Khổng Tử xác nhận ba đức tính căn bản quan hệ trong người quân tử không thể thiếu được là Trí, Nhân, Dũng, nhưng ở trên Ngài đă đặt cho T́nh đứng đầu, ở đây Ngài xếp cho Nhân ngôi thứ nhất, vậy là Ngài ngầm bảo rằng đức Nhân kiêm được hai đức Trí và Dũng. Vậy nên đức Nhân là danh từ đại diện toàn nhân cách : Trí, Nhân, Dũng của người quân tử. NHÂN trên b́nh diện VŨ TRụ . Nh́n vào vũ trụ nhân sinh với cặp mắt của một triết nhân, Khổng Tử đă gắn liền chữ Nhân vào tia nh́n. V́ thế vũ trụ dưới tia mắt được lọc qua dưới môi trường biến ảo không ngừng. Vũ trụ dưới tầm mắt Ngài bấy giờ như một ḍng nước không ngừng trôi chảy : " Thệ giả như tư phù bất xa trú dạ " : Trôi chảy măi thế thôi ngày đêm không ngừng. Suy lư, nội giới cũng là môi trường hiện tượng biến dịch theo luật định. Định luật chung cho sự biến dịch đều theo một hệ thống biến thái tuần tự nên có lớp lang và mỗi giao mùa đều được báo ứng bằng một hiện tượng thay đổi uyển chuyển, sắc màu chuyển tiếp nhẹ nhàng như sự thay đổi cung bậc của điệu đàn, nhạc lư. V́ lẽ đó, đối với sự biến dịch to lớn của vũ trụ ta có thể gọi là đại ḥa điệu hay là Thái Ḥa : " Kiền đạo biến hóa, các chính tính mệnh bảo hợp Thái Ḥa " : Đạo trời biến đổi, mọi vật theo đúng khuynh hướng tiến triển của tính, ǵn giữ các Đại Ḥa Điệu. Sự luân chuyển của vũ trụ thiên nhiên có điều lư trật tự th́ phải theo một đường lối rỏ ràng và trong nội tâm của con người sự biến thái của tâm lư theo đường lối đó là tất phải nhắm mục tiêu đạo lư và có chủ đích hẳn hoi. Sự luân lưu có hệ thống ấy là sinh trưởng hóa dục : Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn. Mục đích phải đạt ở đây là tiến đến việc ḥa điệu cho lư tưởng của sự sống " toại kỳ sinh ". Sống thi vị là sống được măn nguyện sức sống. Vậy nên ḍng sống với mục đích thỏa mản theo định luật vận hành có điều lư trật tự đă thông qua cả ngoại giới lẫn nội giới của sự vật. Đối với đời sống vật lư, sinh lư và tâm lư th́ ḍng sống ấy là một thực tại chung. Đặc tính tồn tại của ḍng sống động ấy trong vô h́nh qua những hiện tượng hiện rồi biến, biến rồi hiện, Khổng Tử gọi là Tính. Chiết tự chúng ta thấy chử Tính gồm có chử Tâm và chử Sinh nên có thể dịch là Ḍng Sông Tâm Linh và gọi tắt là Tâm Linh. Ư thức thực thể đại đồng nẩy mầm trong đó, thế nên nó luôn luôn tiến về thuần nhất trong khi các hiện tượng biến đổi không thể tồn tại : " Nhất Âm nhất Dương chi vị đạo, kế chi giă thiện dă, thành chi giă tính dă " : Một lần Âm một lần Dương (một đóng một mở, một hướng tâm một ly tâm) là đạo (định luật vận hành). Nối theo cái ấy là hành, làm cho nên cái ấy là tính, là Tâm Linh. Có người thắc mắc hỏi xuất xứ của tính ấy, sách Trung Dung chép là do thiên bẩm có từ khi khai thiên lập địa. Nó là tự nhiên tính : " Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo " : Mệnh trời gọi là tính, noi theo tính gọi là đạo. Người ta c̣n gọi Tính ấy là Tâm Thiên Địa v́ nó là t́nh yêu của đại đồng và là bản thể của đức Nhân, cái mà Khổng Tử gọi là " Nhân giả ái nhân ". Để mọi người phân định được cái tâm thiên địa hay Thiên Mệnh, Khổng Tử bảo rằng : " Hoặc sinh nhi tri, hoặc học nhi tri, hoặc khốn nhi tri, cập kỳ tri chi nhất dă " : có kẻ sinh ra đă biết, có kẻ học tập rồi biết, có kẻ cố gắng mà biết, đến khi biết th́ đều như nhau, chỉ có một đạo lư (Luận Ngữ). Sự hiểu biết trong cuộc đời Khổng Tử, Ngài chia làm hai giai đoạn hưởng thụ : 1) - Giai đoạn đầu là thời kỳ tín cổ : Nhờ tin vào kinh nghiệm của các bậc tiền bối truyền lại mà ham học để biết, Ngài nói : " Tín cổ nhi hiếu chi ". Ở thời kỳ nầy Ngài thực hành theo phương pháp " Nội tỉnh " để suy lư. Sách Trung Dung đă chép lời nói của Khổng Tử về khoa xét nghiệm nội tâm. Mục đích là để thấu triết được tiếng nói của lương tâm, chân xác Thiên Mệnh và định rơ khuynh hướng của Tính. Lời Ngài : " Đạo dă giả, bắt khả lu du li dă, khả li phi đạo dă. Thị cố quân tử giới thận hồ kỳ sở bất đổ, khủng cụ hồ kỳ sở bất văn. Mạc thiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi, cố quân tử thận kỳ độc dă " : Đạo lư không thể xa cách ḿnh một khắc nào. Nếu có thể xa cách được th́ đă không phải là đạo lư. Cho nên người quân tử thận trọng răn ḿnh từ chổ chưa nh́n thấy, lo sợ từ chổ chưa nghe thấy. Chẳng ǵ ẩn náu mấy lại không hiện ra, chẳng ǵ rơ mấy lại không rơ ra cho nên người quân tử phải thận trọng xét nét khi ngồi một ḿnh vậy. 2) - Giai đoạn thứ nh́ là giai đoạn Ngài đă trưởng thành nhờ tŕnh độ trí thức căn bản trong thời kỳ tín cổ : Ở giai đoạn nầy Ngài nhờ cố gắng học tập cho tới già để tri được Thiên Mệnh : " Ngũ thập nhi tri Thiên Mệnh ". Và thầy Mạnh Tử khi bàn đến cái Tính và Thiên Mệnh ở trên, thầy nói rỏ thêm con đường luân lư mà đức Khổng Tử đă nói : " Tận kỳ tâm, tri kỳ tính, tắc tri thiên " : t́m tận tới đáy ḷng ḿnh th́ biết được Tính. Biết được tính ḿnh th́ biết tính Trời. Tính là niềm tin tuyệt đối của giáo lư Khổng Mạnh, v́ nó là nguồn sống của tâm linh, là thực thể chung cho nội giới lẫn ngoại vật ! Tính c̣n là điểm trọng tâm của hai đầu mút : Tính của bản tâm, và tính của người khác, của vạn vật. Tuy thế giới của hiện tượng biến chuyển không ngừng qua muôn h́nh vạn trạng song nó đều qui về điểm ly tâm là Tính để đồng biểu hiện cho một nguyên lư tâm linh. Tính đi từ nội tâm đến ngoại vật. Thế nên, sự đi t́m phải bắt đầu bằng tia nh́n của Chính tâm, soi từ biên giới không đổi của Tâm ḿnh và cứ thế lan tràn dần khắp cơi nội tâm đến ṿng biên giới to lớn nhất đó là Tính chung của thế giới nhân sinh và vũ trụ. Mạnh Tử viết : " Vạn vật bị ư ngă, phản thân nhi thành " : Nguyên lư muôn vật đầy đủ ở ta, quay về bản thân mà thực hiện ở nơi ḿnh. Xem thế, Thiên Mệnh không là một vấn đề siêu h́nh bất khả tri nếu con người biết tin vào khả năng trí thức của ḿnh. Cần nhất là phải cố gắng suy xét, t́m hiểu và tu chỉnh cho tâm ḿnh được chính về cả hai phương diện Tri lẫn Hành sao cho hợp nhất. Khổng Mạnh luận về tính : " Duy thiên hạ chí thành vi năng tận kỳ tính. Năng tận kỳ tính tắc năng tận nhân chi tính. Năng tận nhân chi tính tắc năng tận vật chi tính ", nghĩa là : chỉ có người hết sức thành thực trong thiên hạ mới có thể phát triển trọn vẹn tính ḿnh, có thể làm tṛn tính ḿnh th́ có thể làm trọn tính người. Làm trọn được tính người th́ có thể làm trọn được tính vật. Và cứ theo đà ấy ư thức tâm linh gọi là tính ḥa đồng vào thế giới nhân sinh đại đồng nối liền con người với tạo vật và cảm thông được Thiên tính. Muốn suy được mệnh th́ phải noi theo đường tin của Khổng Tử " Thành tắc minh, minh tắc thành " ( thành thật th́ sáng suốt, sáng suốt th́ thành thật). Như thế con người trước Thiêm Mệnh mới : " Dữ Thiên Địa tham " : ( tham gia mật thiết với Trời Đất, không trái mệnh ) vậy. NHÂN với Nhân Sinh, Đức Nhân Trong đạo sống của ḿnh và cho người, Khổng Tử luôn luôn lấy đức Nhân và t́nh yêu người làm tiêu chuẩn. Người đạt đến bậc Nhân là người hoàn toàn. Dù Ngài được hơn 3.000 đệ tử và muôn vạn người đương thời sùng bái nhưng Tính chân thành và Ḷng hướng thượng của Ngài không bao giờ cho phép Ngài tự măn, tự nhận. Ngài không dám ví ḿnh tới kẻ đạt Nhân, mà chỉ xem Nhân như là một đối tượng cao quư nhất phải đạt. Ngay cả thầy Nhan Hồi là một cao đệ bậc nhất của Khổng Tử, sau nầy thầy cũng chỉ dám nói như một tín đồ ngoan đạo sùng kính đức Nhân : " Tam nguyệt bất vi nhân " : ba tháng không trái với đức Nhân. Xem thế đức nhân là cái đức tính bẩm thụ của nhân loại từ cái Toàn Thiện mà Khổng Tử hằng nhắc nhở đến với cả ḷng tôn sùng là một lư tính tối thượng, một nhân cách quá vĩ đại ! Con người và vạn vật đều chịu sự chi phối bởi Thiên Mệnh đồng nhất bất phân nhưng hai lối rẻ ấy : vạn vật th́ vật dục bế tắc, nhân loại th́ nhờ tâm linh mầu nhiệm nên vươn ḿnh chổi dậy đứng ở một tŕnh độ tư tưởng cao hơn tất cả. Trong Kinh Thư Chu thư chép : " Duy thiên địa vạn vật phụ mẫu duy nhân vạn vật chi linh ", nghĩa là : trời đất là cha mẹ chung nhưng chỉ nhân loại là linh hơn cả. Và Pascal đă xác nhận điều đó như một tấm ḷng hào phóng của triết nhân lư tưởng : L'homme n'est qu'un roseau le plus faible de la nature ; mais c'est un roseau pensant. Con người dù biết rằng trước nguyên lư của Vũ trụ thiên chức chưa có thể tự hào ḿnh là toàn năng, nhưng so với vạn thế muôn loài, theo Khổng Tử, nhân loại lúc nào cũng cố gắng tiến triển không ngừng để thể hiện xứng đáng với cái linh tính, một khả năng vô hạn của ḿnh hướng thiện nhân cách. Khi đạt đến chổ siêu thoát tinh vi của bậc Hiền Nhân quân tử th́ có thể tự hào đạt đến bậc Nhân. Đức nhân lấy t́nh yêu làm trọng tâm và từ đó người ta thấy một thế giới t́nh yêu mầu nhiệm rộng mở. Khổng Tử tha thiết kết luận : T́nh yêu ấy là lẽ sống thiên liêng của Ngài và là quan điểm nồng cốt trong chương tŕnh của Ngài đă, đang và sẽ xây dựng đạo thanh cao cho nhân loại. Tính chất đại đồng, kiêm ái của quan niệm t́nh yêu do Khổng Tử quàng lên bậc Nhân Đức như một ṿng hoa danh dự quàng lên vai người chiến thắng là thứ t́nh yêu thực chất đáng yêu chứ không chỉ là một ư nghĩ mơ hồ diệu vợi. Sự chứng minh thực nghiệm của nó phải đi từ bản chất cá thể chính ḿnh đối với địa hạt thân cận nhất đời ḿnh, ở đó phải có những người cùng một mối liên hệ to tát như : cha mẹ, anh em, rồi lan dần đến láng giềng, xóm, làng, quốc gia và thế giới nhân loại. Đó phải chăng là phương châm Tu, Tề, Trị, B́nh, nghĩa là bắt đầu từ bản thân phải tu sửa, đến gia đ́nh phải tề chỉnh, đến quốc gia phải chính trị, đến nhân loại thế giới phải được ḥa b́nh mà Khổng Tử thường nhắc đến ? Ngài cũng đă tŕnh bày trong Hữu Từ : Luận Ngữ về điểm căn bản của sự vun trồng tương lai : " Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh ; Hiếu để dă giả kỳ vi nhân chi bản dư ? " : Người quân tử vun trồng nơi gốc, góc vun th́ đạo lư nẩy nở. Hiếu để ấy là gốc làm người nhân đức chăng ?) Thế nên có thể tóm kết rằng : " Đức ái của người Nhân là t́nh yêu thực hiện, có chỗ bắt đầu để đi tới cứu cánh. Và người ta ai cũng có sẵn khả năng để thành tựu người Nhân, nhưng phải đi từ bậc thấp đến bậc cao, từ gần đến xa không thể quên hẳn ḿnh măi măi cho tất cả ". Đó là phương pháp thực hiện quan niệm t́nh yêu của Đức Khổng Tử. Phương pháp này đặt trên căn bản thứ trật hết sức uyển chuyển theo từng đối tượng. Với người thân phương pháp ấy trở thành một t́nh yêu thương chân thật, đậm đà, nhưng với người hiền nhân quân tử th́ sự yêu thương biến thành ḷng tôn kính trang nghiêm được thể hiện qua phép cư xử có tôn ti lễ trật " Thân thân hữu thuật, tôn hiền hữu đẳng " : Yêu người thân có phương pháp. Tôn trọng người hiền có tŕnh độ thứ bậc. Và phương pháp thứ bậc trong việc thực hiện đức yêu của người Nhân là để xây dựng cuộc sống Nhân sinh đại đồng " Tứ hải giai huynh đệ ". Bao giờ t́nh yêu ấy cũng cố gắng tăng trưởng bằng tư tưởng sáng tạo, lớn dần và không định giới hạn. Cho nên có thể nói rằng quan niệm t́nh yêu của Khổng Tử, của bậc Nhân chưa bao giờ mỏi mệt, tự măn để dừng nghĩ trước thế giới mà người đời cho là vĩ đại như nhân loại t́nh yêu ấy khi tới biên giới đại đồng nhân loại lại chỗi ḿnh cất cánh bay bỗng đến một thế giới khác để chiếm hữu. Thế giới đó phải là thế giới của tâm linh siêu hóa, của vũ trụ ḥa điệu đại đồng. Sau đây là lịch tŕnh tu thân thực hiện Đạo lư của đức chính nhân Khổng Tử qua lời tự thuật của Ngài : Ngô thập hữu ngũ chí ư học Tam thập nhi lập Tứ thập nhi bất hoặc Ngũ thập nhi tri Thiên Mệnh Lục thập nhi nhĩ thuận Thất thập nhi ṭng tâm sở dục bất du củ Dịch là : Ta mười lăm tuổi chuyên tập học tập Ba mươi th́ chí lập đă vững Bốn mươi không ngờ vực Năm mươi thấu triệt được Mệnh Trời Sáu mươi tai nghe thuận với lẽ Trời Bảy mươi, theo ḷng mong muốn mà không vượt khỏi đạo lư. Ngày nay, hậu sinh đọc tư tưởng của Ngài và có tâm suy tưởng mong được hiểu rỏ Ngài mới thấy được đạo người của NgàI thật quá cao siêu. Sự cao siêu đó, không là một thế giới ảo ảnh trừu tượng như một tôn giáo thuần túy mà đạo lư ấy luôn luôn được Ngài đặt sát ḥa đồng với thực tế nên giữ được giá trị trường cửu trong ḷng nhân thế phi không, thời gian. Đạo và Đời gặp nhau để bổ sung nhau : " Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo, nhi viễn nhân bất khả dĩ vi đạo " : Đạo lư không được xa người, Người lập đạo lư mà xa với người th́ không có thể lấy làm đạo lư được. Đạo đó là đạo làm người, tập cho con người sống cho ra con người, cái con người được tiếng là tinh khôn hơn cả muôn loài. Trước một thế giới điên loạn, " khi tỉnh rượu, lúc tàn canh " con người với bản tính " đầy dục vọng " đến lúc " giật ḿnh tỉnh lại thương ḿnh xót xa ", họ bắt đầu để tang cho vị quân sư BÁ ĐO của họ và muốn học làm người th́ h́nh ảnh VƯƠNG ĐO và học thuyết NHO GIÁO của Khổng Tử hiện đến tâm hồn họ như một nguồn sống bất tận, một ánh sáng vàng kim " Khuôn vàng thước ngọc " chói chang khi đêm về đen tối... GIÁ TRị TRƯỜNG CỬU CỦA TRIẾT LƯ NHÂN BẢN NHO GIÁO Để có một nhận định tổng quát về học thuyết Khổng Tử, chúng ta có thể căn cứ vào những nhận xét sau đây của : _ Thầy Mạnh Tử : " Khả dĩ sĩ tắc sĩ, khả dĩ chỉ tắc chỉ, khả dĩ cửu tắc cửu, khả dĩ tốc tắc tốc, Khổng Tử giă : Nên làm quan th́ làm quan, nên thôi th́ thôi, nên lấy làm lâu th́ lâu, nên lấy làm chóng th́ chóng, là Đức Khổng Tử vậy ". MNH TỬ Công Tôn Sửu Thượng. _ Thầy Tử Cống : Có người không hiểu cái đạo của Ngài, thường hay buông lời hủy báng Ngài. Thầy Tử Cống nói rằng : " Vô dĩ vi giă. Trọng Ni bất khả hủy giă. Tha nhân chi hiền giả, Khâu lăng giă, do khải du giă ; Trọng Ni nhật nguyệt giă, vô đắc nhi du yên. Nhân tuy dục tự tuyệt, kỳ hà thương ư nhật nguyệt hồ ? Đa kiến kỳ bất tri lượng giă " : Hủy báng sao được. Đức Trọng Ni không ai hủy báng được. Người khác có tài giỏi th́ cũng như cái gồ cái đống c̣n có thể trèo qua được. Đức Trọng Ni như mặt trời mặt trăng, không sao mà trèo qua được. Dẫu có người muốn lấy lời hủy báng mà tự tuyệt với mặt trời mặt trăng ; th́ hại ǵ đến mặt trời mặt trăng đâu ? Càng đủ rỏ là người không biết lượng vậy. Theo Thầy Tử Cống th́ : " Phu tử chi bất khả cập giă, do thiên chi bất khả giai nhi thăng giă. Phu tử chi đắc bang gia giă, sở vị lập chi tư lập, đạo chi tư hành, tuy chi tư lai, động chi tư ḥa, kỳ sinh giă vinh, kỳ tử giă ai. Như chi hà kỳ khả cập giă " : Phu tử không ai sánh kịp được như Trời kia không ai bắc thang lên được. Nếu Phu tử được có nước mà trị th́ có thể bảo là gây dựng cho dân th́ dân nên, dạy dân th́ dân theo, yêu dân th́ dân mến, khiến dân làm th́ dân được ḥa, sống được vẽ vang, chết người ta thương tiếc. Ai là người sánh kịp được. _ Học giả Trần Trọng Kim Khổng Tử là một người rất thông minh, rất nhân hậu, hết ḷng lo việc cứu đời. Ngài đem cái đạo của thánh hiền đời trước mà phát huy ra lập thành cái học thuyết, lưu truyền về sau để làm kỷ cương cho cái dân tộc ở Á Đông măi đến đời nay đă hơn 2.000 năm, kể có hàng năm trăm triệu người sùng bái làm thánh sư. Mỗi lời nói mỗi cử chỉ của Ngài là đời đời người ta lấy làm khuôn, làm phép mà theo. Một đôi khi, v́ thời cuộc biến đổi, thiên hạ náo loạn, ḷng người chán nản, đạo của Ngài cũng có lúc mờ tối đi, nhưng rồi lại sáng rơ hơn trước mà cái đức vọng của Ngài càng ngày càng tôn trọng thêm lên. Thiết tưởng nếu Ngài không phải là bậc chí thánh, chí nhân, th́ sao được như thế ! Ngài nói điều ǵ cũng ôn ḥa và hàm súc, làm việc ǵ cũng ngay chính và vừa phải, tiến thoái phân minh, động tĩnh hợp thời. Cái đức vọng của Khổng Tử to như thế, nhưng đến ngày nay cái văn hóa vật chất quật khởi lên, những dân tộc ở Á Đông này đều nô nức bỏ củ theo mới, có người cho đạo của Ngài làm ngăn trở sự cải cách, muốn trừ bỏ đi. Đó chẳng qua là v́ sự náo nhiệt trong cuộc hành động một thời, người đời c̣n đang say đắm về đường công lợi, chưa có th́ giờ mà suy xét cho kỷ, nên mới lấy cái lầm lỗi của bọn hủ nho mà bài bác cái đạo của Ngài. Nhưng thiết tưởng xă hội nào đă yên trị, th́ dầu chẳng theo đạo của Ngài, tất cũng phải theo một đạo khác tương tự như thế, để giữ lấy cương thường trật tự trong đám nhân quần. Đạo của Ngài là đạo chí công chí thính, khiến người ta phải theo thời mà biến đổi, tức là đạo phải tiến hóa luôn. Nhưng v́ người đời thường hay hiểu lầm, dần dần thiên về mặt hư văn. Đến nay khoa học thịnh hành lên, việc công nghệ mở mang ra, người ta bỏ được cái lối hư văn đi nhưng lại thiên về đường vật chất vị tất đă hay cho sự sinh hoạt của loài người. Xưa kia ta quá tin về đường hư văn cho nên thành ra suy nhược, sau này ta lại quá tin về đường vật chất, có lẽ lại dở hơn. Phàm cái ǵ thái quá cũng là dở cả, chỉ nên giữ thế nào cho tinh thần và vật chất hai bên cùng điều ḥa với nhau được th́ mới hoàn toàn. Nếu giữ được cái đạo điều ḥa như thế, tức là theo được cái đạo trung dung của Khổng Tử. _ Giáo sư Nguyễn Đăng Thục Công cuộc phục hưng văn hóa Á Châu đối với chúng ta ngày nay, một dân tộc nhược tiểu ở trung tâm châu Á là một vấn đề rất chính đáng tối trọng đại và khẩn thiết ! Bởi v́ chúng ta đang phải cấp tốc hiện đại hóa quốc gia chúng ta, mà hiện đại hóa ngày nay là thích ứng đời sống tập thể và cá nhân với thế giới và nhất là với Âu Mỹ. Chúng ta phải thâu hóa lấy cái hay cái đẹp của người để làm của ḿnh, cũng như trước kia tiền nhân ta đă thâu hóa tinh hoa của hai nền văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa để thực hiện ư chí quật cường của dân tộc vậy. Nhưng ngày nay muốn thẩm định giá trị chính đáng của người, chúng ta không thể không đối chiếu với ḿnh, không thể không xét qua tâm hồn ḿnh. Mà tâm hồn cá nhân cũng như đoàn thể dân tộc không phải một tờ giấy trắng. Cái tâm hồn Việt Nam đă in sâu thành tích của văn hóa cổ kính Á Châu, một văn hóa ở khu vực Ấn Độ hay Trung Hoa và rộng hơn toàn thể cơi Á Châu từ địa Trung Hải đến Thái B́ nh Dương có chung một đặc tính là truyền thống. Hai chữ truyền thống (tradition) có nhà xă hội văn hóa học hiểu nghĩa chính là văn hóa, v́ văn hóa đ̣i phải có sự lũy tích đời nọ truyền cho tới đời kia. Ở đây chúng tôi chỉ hiểu truyền thống theo nghĩa đen của nó là cái không gián đoạn, nối tiếp quá khứ với hiện tại và tương lai đúng như Khổng Tử xưa kia đă thực hiện : " Ôn cố tri tri tân " (xét lại việc đă qua để đoán hiểu điều sắp tới). Cái sợi dây thông suốt qua đời nọ sang đời kia ấy khác nào một ḍng sinh khí ngấm ngầm vận động và thúc đẩy trong cơ thể nhân loại, cái ấy là mạch sống tâm linh và chính đấy là đặc tính của truyền thống Á Châu, như nhà văn hóa Nhựt Okakura-Karuzo đă nói từ đầu thế kỷ 20 : " Asia is nothing but spiritual : Á Châu chỉ là tâm linh ". Trong cái giá trị vĩ đại của văn hóa Á Châu, th́ Khổng Mạnh đă có một địa vị quan trọng v́ ảnh hưởng sâu rộng và bền bỉ tất cả sinh hoạt cá nhân và tập thể vào số lớn nhân dân trong đó có dân tộc Việt. Ai đă từng vào ngắm ngôi đền Văn Miếu ở Hà Nội, hay ở Long Hồ đều nhận thấy cái bức hoành phi treo chính ở giửa bốn chữ đại tự : VN THẾ SƯ BIỂU Ở bốn chữ suy tôn Khổng Phu Tử để kính thờ ấy, chúng ta ngày nay c̣n có thể thấy được tinh thần của tiền nhân chúng ta xưa đă đề cao sứ mệnh của giáo hóa là chừng nào, và tôn trọng nhân cách kiểu mẫu của ông Thầy, của nhà giáo là chừng nào ! Và cũng chính ở hoạt động giáo hóa mà Khổng Phu Tử đă tỏ ra một nhà Cách Mạng...
Giáo lư - ĐI-ĐO TAM-KỲ PHỔ-Độ T̉A-THÁNH TÂY-NINH
GIÁO LƯ
HIP THIÊN ĐÀI Tiếp pháp quân : Trương văn Tràng LỜI TỰA Của Ông Bảo-Thế Lê-Thiện-Phước ------ Học Đạo là t́m hiểu Chơn-lư và một khi thấu triệt rồi th́ không c̣n vui thú nào ở thế-gian sánh kịp. Nhờ vậy, người hành đạo mới dám hi-sinh những cái ǵ ràng buộc Thần-trí và Tâm-hồn, ngơ hầu giải thoát cảnh trầm luân nơi bễ khổ đặng qui hồi nguyên bổn. Từ xưa đến nay đă có nhiều Tôn-giáo xướng xuất nhiều phương hướng d́u dẫn nhơn-sanh trong trường xửsự tiếp vật theo đạo hóa-sanh của Trời-Đất. Song le, văn minh vật chất càng ngày càng tiến triển, như hiện giờ khoa-học gần như muốn chiếm đoạt cơ mầu-nhiệm của Tạo-Đoan, th́ trái lại, tinh thần đạo đức của nhơn-sanh càng ngày càng lu lờ, mặc dầu các Tôn-giáo kia đă tận lực giáo nhơn qui thiện. Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ xuất-thế với một yếu-lư qui Tam-giáo hiệp Ngũ-Chi, thành-thử những Tu-Sĩ của nền tân Tôn-Giáo nầy không c̣n phân-biệt giáo phái, tức là coi nhau như bạn thân đồng theo một khuynh hướng "Cứu nhơn độ thế". Lẽ dĩ nhiên Đạo Cao-Đài phải có một Giáo-lư phù hạp với Tŕnh độ của nhơn-sanh hiện tại đặng chuyển đọa vi-thăng, tiêu trừ nghiệp chướng. Huynh Tiếp-pháp Trương-văn-Tràng đă dày công soạn quyển Giáo-lư nầy cốt yếu giúp cho các bạn Tu-sĩ khỏi lầm lạc trên đường học Đạo;
Sách nầy đánh truyền bá các nơi, dầu nơi gia-đ́nh Đạo-giáo, hay gia-thất bàng quan, đều nên đọc nó, bất luận là lúc nào, trong đồi ḿnh, sẽ thấy nó là nguồn an-ủi để sửa ḿnh khi rủi lâm vấp tội t́nh, hoặc nó sẽ là kim Chỉ-nam để vạch lối cho kẻ hành giả đem cái Ta giả-hiệp trở về cái Chơn thật bổn-ngă.
T̉A-THÁNH, ngày 28 tháhn 8 năm Kỷ-Hợi (30-9-59 d.l.) Qu. Đầu-Sư Cửu-Trùng-Đài Bảo-Thế Kư tên : LÊ-THIN-PHƯỚC
T̉A-THÁNH, ngày 24 tháng 8 năm Kỷ-Hợi (26-9-1959) Tặng quyển " ĐI - ĐO GIÁO - LƯ " của ông Tiếp-Pháp TRƯƠNG - VĂN - TRÀNG *** "Giáo-Lư" Đạo Trời thất ức niên, Trương-Quân biên soạn để lưu truyền. Tồn tâm chỉ rơ đường mê-giác, Dưỡng tánh phân rành nẻo tục-tiên. Vẹt ngút mây mù nâng đuốc huệ, Gắng công học hỏi đánh tài hiền. Noi theo chánh thuyết bền trau luyện, Mới đạt chơn tu phép diệu huyền. CAO-THƯỢNG-SANH * THỂ THEO CÂU PHƯƠNG NGÔN Cành hoa nở buổi rạng đông, chẳng phải muốn khoe sắc đẹp, hương thơm mà tại thời tiết bắt nó phải nở, cho nên nó không thể không nở được. Mặc t́nh khách qua đường ai yêu hoa th́ dừng chơn mà thưởng thức. THAY LỜI TỰA * Nay khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn không dùng lối giáng Trần như mấy lần trước, mà lại dùng Thần-Điển đặng truyền-giáo. Đức Chí-Tôn cũng không xưng danh "NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ" mà lại tá danh "Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát", để cầm giềng nền Tân Tôn-Giáo. Cái lẽ tại làm sao Đức Chí-Tôn dùng phương-pháp khác hơn thời xưa thié xim xem bên trong quyển sách nầy sẽ rơ. Bây giờ, chúng tôi xin kể sơ lược cách Truyền-giáo của Đức Chí-Tôn, để độc-giả hiểu qua cái lẽ huyền-diệu của ông Thầy Trời. Như lúc ban đầu những người Thiện-nam, Tín-nữ, thượng sớ cầu Đạo th́ Đức Ngài cho mỗi người một bài thi : hoặc bát cú, hoặc tứ-tuyệt. Trogn bài thi, đức Ngài nói đời tư, hay tâm-lư của đương-sự, để mỗi người tự xét ḿnh. Kịp đến sự dạy Đạo cũng vậy. Đức Chí-Tôn tùy căn-cơ mỗi Môn-đệ, cảm-hóa lần hồi : từ chỗ dễ đến chỗ khó, từ chỗ tối đến chỗ sáng, từ chỗ mê đến chỗ ngộ. Lời dạy dỗ hấp dẫn kẻ học ham mà không chán, có đức-quả mà không biết. Thật phép giáo-hóa của Đức Chí-Tôn vô cùng khéo léo.
Th́ chúng tôi cũng ở trong trường hợp ấy. Trước kia,không hiểu đạo-lư là chi, thậm chí đến đức-tin truyền thống của Tổ-phụ cũng chỉ c̣n phưởng-phất trong tâm-địa mà thôi. Rồi th́nh-ĺnh đến năm Ất-Sửu (1925) tại Sài-gon, có một phong-trào "Pḥ-cơ, Chấp-bút, Xây-bàn" nổi lên. Ban đầu, v́ tánh háo-kỳ, chúng tôi theo để t́m hiểu sự thật. Thế mà rồi v́ ham mộ văn-chương, chăm theo không chán, măi rồi lại ư-hội được Chơn-lư và sau cùng th́ mộ Đạo. Nhờ sự khéo dạy dỗ của Đức Chí-Tôn mà chúng tôi hiểu được chút ít Đạo-lư.
Quyển sách nầy gồm có mười chương, mỗi chương gồm những bài học của chúng tôi, hoặc do Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy, hoặc khảo-cứu trong kinh sách Tam-giáo, rồi sắp đặt thành thông-hệ mạch-lạc. Mặc dầu nghĩa lư nông-sơ, nhưng chúng tôi cũng thành-thật cống-hiến cho Bổn-đạo, gọi là làm công-quả.
Để biết qua cái đại-cương của quyển sách,chúng tôi xin tŕnh bày sơ-lược mười chương sách đă nói trên. C̣n như muốn biết tinh tường th́ xin xem chi-tiết bên trong.
Chương thứ I : Tiểu-sử Đại-Đạo Chương thứ II : Nền tảng Đại-Đạo Chương thứ III : H́nh thể Đại-Đạo Chương thứ IV : Lễ nghi Đạo-luật Chương thứ V : Vơ-Trụ-Quan Chương thứ VI : Nhơn-Sanh-Quan Chương thứ VII : Sự giáo-hóa của Đại-Đạo Chương thứ VIII : Hạ-thừa Chương thứ IX : Thượng-Thừa Chương thứ X : Tổng-luận.
Trong mười chương sách vừa kể trên : từ chương I đến chương IV, chúng tôi tŕnh bày Tiểu-sử Đại-Đạo và một Hội-Thánh gồm có Ba-đài, đại-diện Đạo-Đức tại thế-gian, để độc-giả biết qua nền Tân Tôn-giáo do phương thức nào xuất hiện và làm thế nào đặng nên gương đạo đức cho người đời soi sáng. Từ chương V đến chương IX, chúng tôi nghị luận Vơ-Trụ-Quan, Nhơn-Sanh-Quan, cách giáo-hóa của Đại-Đạo để Độc-giả thấy chỗ thành lập đức tin của Tín-đồ Đại-Đạo. Thứ nữa, kẻ học sẽ nương Hạ-thừa mà tiến lần đến Thượng-thừa. Hai lớp học nầy, (Hạ-thừa và Thượng-thừa), tuy khác tŕnh độ, song cả hai đều lấy đạo Trời làm căn bản để sửa đạo Người ; nghĩa là kẻ Tín-đồ Đại-Đạo lấy thiên-lư làm then chốt cho đời sống của ḿnh để thực-hành cái thuyết "Thiên địa vạn-vật nhứt thể" của Tam-giáo đời trước ; cứu cánh là giải-thoát kiếp Luân-hồi ra ngoài ṿng sanh-tử. Tài sơ, đức bạc, chúng tôi lấy làm ái-ngại mà cống-hiến quyển sách nhỏ nầy. Dĩ nhiên, sự khuyết-điểm th́ chắc chắn không tránh khỏi. Mặc dầu vậy, chúng tôi cũng mong rằng : nó sẽ giúp ích cho người mới nhập môn một phần nào. Tác-giả kỉnh đốn. CHƯƠNG THỨ NHỨT -*- TIỂU-SỬ ĐI-ĐO -*- HUẤN-LUYN Đ-NG-TỬ Ngày nay, ai cũng hiểu rằng nền Tôn-giáo Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ do huyền-diệu cơ-bút thành-lập, mà Đồng-Tử là vấn-đề quan-trọng trong phép "Thông-Thần-Lực" (médiumnité). Ấy vậy nên trước khi khai Đạo, Đức CHÍ-TÔN ủy-quyền cho chư Tiên Phật chọn lựa và huấn-luyện Đồng-Tử. Chúng tôi c̣n nhớ vào khoảng thượng tuần tháng 6, năm Ất-Sửu (1925) tại Đô-Thành Sài-Gon th́nh-ĺnh phát-khởi một phong trào : Xây bàn, Pḥ cơ, Chấp bút. Đầu nầy xây bàn tiếp chuyện với các Vong-linh, để họa thi vịnh phú ; chỗ nó Pḥ-cơ, Chấp-bút cầu Tiên để xin Toa thuốc chữa bịnh. Tại trung-tâm Sài-gon có một nhóm công-chức cũng bắt chước xây-bàn cầu các Đấng Thiêng-Liêng để học hỏi văn-chương thi-phú. Ban đầu, họ tính dùng dịp tiêu-khiển mà thôi ; nhưng về sau v́ ham mộ văn-chương thi-phú, mà họ theo đuổi phép "Thông-Thần-lực" đến nơi vi-diệu mà rồi chung cuộc họ trở nên những người Pḥ-Cơ đặc-sắc để Đức CHÍ-TÔN dùnh làm môi giới cho sự mở Đại-Đạo. Những vị sau này được CHÍ-TÔN phong vào hàng Chức-Sắc đại Thiên-phong trong Đài Hiệp-Thiên. Nhắc lại, nguyên chiếc bàn nhỏ có bốn chưn, kê hai chưn kia cao hơn hai chưn nọ, chừng ba phân tây. Thế th́ chiếc bàn trở nên gập-gh́nh, có thể dở lên đặt xuống dễ dàng. Sự xây bàn phải có ít hơn hết là hai người, ngồi đối diện nhau và để hai bàn tay lên trên mặt bàn. Trong chừng 10 phút th́ chiếc bàn bắt đầu chuyển động. Đó là triệu chứng đă có một vị Thiêng-Liêng giáng-điển, chiếc bàn bắt đầu dở lên và gỏ xuống. Vậy chiếc bàn chuyển động cách nào mà viết ra chữ ? Có một khẩu ước giữa Đấng Vô-h́nh và hai vị Đồng-Tử như vầy : nhịp một lần là chữ "A" ; hai lần là chữ "Ă" ; ba lần là chữ "Â" bốn lần là chữ "B" và cứ như thế tiếp diễn đến đủ 24 chữ cái. Trong khi bàn nhịp, hễ ngừng chỗ nào th́ người ngồi ngoài phải biên chữ ấy ; chung cuộc thành ra một danh-từ ; nhiều danh-từ hiệp thành một bài thi "Bát-cú", hoặc một bài "Tản-văn" Cách "Xây bàn" ban đầu th́ khó khăn ; nhưng về sau, các vị Đồng-Tử quen tay và thuần-điển th́ cũng được dễ dàng. Nhờ vậy nên sự tiếp chuyện càng ngày càng được mau lẹ và rơ ràng. Chúng tôi c̣n nhớ, có lẽ hôm ấy nhằm ngày 10 tháng 6 năm Ất-Sửu (1925) có một cô gái nhập bàn, tự xưng là Đoàn-ngọc-Quế và cho một bài thi Bát-cú như vầy : " Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai ; " Mạng bạc c̣n xuân uổng sắc tài. " Những ngỡ trau duyên vào Ngọc-các, " Nào ngờ phủi nợ xuống Tuyền-Đài. " Dưỡng sanh cam lỗi t́nh sông núi, " Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai. " Dồn dập tương tư hoằng một gánh, " Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai. Sau rơ lại th́ cô Đoàn-Ngọc-Quế là biệt hiệu của bà Thất-nương Nữ-Phật Diêu-Tŕ-Cung dùng lối giáng Thần, và cho thi như trên là có ư cảm hóa mấy vị Đồng-Tử tương lai. Từ đó về sau Cửu-vị Nữ-Phật Diêu-Tŕ-Cung thường hay giáng Đàn và dùng lối văn vừa vui, vừa hay, để huấn luyện Đồng-Tử. Đến một hôm nọ, th́nh ĺnh có một Đấng giáng Đàn với một Thần-điển phi thường và tự xưng là A Ă Â. Về sau, biết ra th́ chính Ông A Ă Â là Đức "Cao-Đài Thượng-Đế". Đức Ngài có nói rằng :"Ta phải hạ ḿnh là một Chơn-Linh thường, để cảm hóa các con". Thật quả vậy, nếu lúc đó Đức CHÍ-TÔN nói rơ : Ngài là Đức Thượng-Đế th́ chắc chúng ta chẳng hề dám lân la học hỏi. Cách dạy của Ông A Ă Â cũng như các vị Nữ-Phật nói trên ; nghĩa là Ông cho bài vừa vui, vừa hay, làm cho kẻ học không chán. Măi đến ngày 30 tháng 10 năm Ất-Sửu nhằm ngày 15 tháng 12 năm 1925, Đức CHÍ-TÔN dạy phải lập bàn Vọng-Thiên cầu Đạo và phải dùng lối "Pḥ Cơ" để tiếp xúc với Đức Ngài. Cách Pḥ-Cơ bây giờ hăy c̣n dùng ; có lẽ ai cũng hiểu, khỏi phải mô tả nữa. Đến đêm 24 tháng 12 năm 1925, ngày Chúa giáng sanh bên Thái Tây, đức CHÍ-TÔN giáng-cơ dạy rằng : "Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên-Ông, Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát giáo Đạo Nam-Phương". Thi : " Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền, " Vui ḷng tu niệm hưởng ân Thiên. " Đạo mầu rưới khắp nơi Trần-Thế, " Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn bền. Đến đây chúng tôi mới rơ ra rằng cái phong trào Xây bàn, Pḥ-Cơ, Chấp-Bút trước kia là Tiên-triệu (Signes précurseurs) cho nền Tôn-giáo Đại-Đạo vừa xuất thế và cũng là phương-pháp huấn luyện Đồng-Tử của Đức CHÍ-TÔN để dùng truyền giáo. Lời Tiên-Tri.- Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng cơ lập một nền Tôn-giáo như thế nầy là một việc thế-gian hi-hữu, làm cho chúng tôi, mặc dầu đă suy nghĩ nhiều, song vẫn bán-tín, bán-nghi. Thế nên chúng tôi mới t́m hiểu thêm nữa th́ thấy trước kia đă có nhiều lời tiên tri rằng sẽ có một nền Tân Tôn-giáo, xuất thế, mà chúng tôi lần lược kể như sau : a) Sách "Phật Tông-Nguyên-Lư" chép rằng : Khi Đức Phật Thích-Ca sắp tịch nhập, để tử Ngài là A-Nan-Đa rơi lụy mà hỏi rằng : "Khi Tôn-Sư viên tịch rồi, ai dạy bảo các con ?" Ngài đáp :"Ta Chẳng phải là vị Phật đầu tiên, hay là cuối cùng giáng thế. Ngày giờ đến, sẽ có vị Phật khác xuất hiện cứu đời, một vị Chí-Thánh, một vị Đại-giác cực kỳ cao thượng, một vị dẫn Đạo vô song của Nhơn-loại, một vị Chúa-tể cả Thánh Thần và loài người, Đấng ấy sẽ truyền lại cho các con một mối Đạo vinh diệu buổi sơ khai. Vinh diệu buổi thạnh hành, vinh diệu buổi kết cuộc. Đấng ấy sẽ xướng xuất một đời sống đạo-đức hoàn toàn thuần khiết". b) Đạo Minh-Sư sáng lập hồi đời nhà Thanh bên Trung-Hoa, có hai câu sấm, do các vị Tổ-Sư lưu lại như vầy : Cao như Bắc khuyết nhơn chiêm ngưỡng, Đài tại Nam-Phương đạo thống truyền. Nghĩa là : Đạo cao như Bắc-khuyết, người ta ngước mặt lên mà kính mến. Nơi phát sanh ra Đạo là phương Nam (ám chỉ nước Việt-Nam) và liên tục truyền bá không ngừng. c) Kinh Giác-thế có câu : Thánh Hiền Tiên Phật hi-hữu chi nhơn. Tam-Kỳ Phổ-Độ hi-hữu chi sự. Phi hi-hữu chi nhơn. Yên năng hành hi-hữu chi sự ? Nghĩa là : Thánh Hiền Tiên Phật là bậc có ít, cũng như Tam-Kỳ Phổ-Độ là việc ít có. Không phải là bậc có ít, há làm được việc ít có hay sao ? d) C̣n một bằng chứng hiển nhiên nữa là lúc bấy giờ, Ngài Đốc-phủ Ngô-văn-Chiêu đă có thờ Đức CHÍ-TÔN và theo học Đạo từ năm Giáp-Tư (1924). Nhờ những bằng chứng kể trên, chúng tôi lập được đức tin vững vàng để theo học Đạo.
NỀN TÂN TÔN-GIÁO XUẤT HIN
Sự truyền bá Đạo-lư, từ đó, đă bắt đầu xúc tiến ; Thiện-Nam Tín-Nữ xin nhập môn càng ngày càng đông. Những người cầm giềng mối Đạo muốn cho sự truyền giáo được dễ-dàng cho nên ngày 7 tháng 6 năm 1926, có 28 vị gởi một tờ "Khai-Đạo" lên quan Thống-Đốc Nam-Kỳ (thời kỳ Pháp thuộc), trong đó có chữ kư tên của tất cả 247 Đạo-hữu. Về mặc khác, Đức CHÍ-TÔN dạy phải thiết Đại-lễ "Khai-Đạo" ; thành thử đến ngày 14 tháng 10 Bính-Dần, nhằm 18 tháng 11 1926, cuộc Đại-lễ khai đạo cử hành tại Từ-Lâm-Tự, tỉnh Tây-Ninh. Nguyên lai ngôi chùa nầy do một vị Ḥa-Thượng bên nhà Thiền đứng ra tạo tác mới vừa xong. Khi Ḥa-Thượng nhập môn rồi, người bằng ḷng cho tạm ngôi chùa để làm lễ khai-đạo. Tại Từ-Lâm-Tự, trong ba tháng hành lễ, người xin nhập môn hằng vạn. Đồng thời, Đức CHÍ-TÔN lập Pháp-Chánh-Truyền, phong thưởng Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài, Cửu-Trùng-Đài tức lập Hội-Thánh và Đức Ngài dạy nhóm Hội-Thánh lập luật Đạo. Ba tháng qua, Pháp-luật đă có th́ nghiểm nhiên Đạo thành một nền Tân Tôn-giáo chánh thức, danh gọi Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ. Sau ba tháng hành-lễ tại Từ-Lâm-Tự, Ṭa-Thánh được dời về chỗ bây giờ. Sự kiến thiết bắt đầu từ đó. Vậy đủ rơ Đại-Đạo do Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, tá danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát dùng huyền cơ, diệu bút mà lập thành ; nhưng, người đời dựa vào Thánh-danh ấy mà gọi tắt là "Đạo Cao-Đài". Sự thiệt, Thánh danh của Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo có ư nghĩa là qui Tam-Giáo (Thích, Đạo, Nho) thành một nền Đạo lớn, mục đích cứu rổi Chúng-sanh, với một cách quảng đại. C̣n Đại-diện Đạo-đức tại thế-gian, để làm gương lành cho người đời soi sáng th́ Đức CHÍ-TÔN lập ra một Hội-Thánh gồm có ba Đài là : Bát-Quái-Đài, Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài. Mỗi Đài có phận sự đặc biệt, mà chúng tôi sẽ nói rơ trong quyển sách nầy. Có điều thần bí không thể nói rơ ra đượclà khi Đạo mới khai, Đức CHÍ-TÔN ban huyền diệu cho người hành đạo nhiều lắm. Đại-để như những bịnh điên, bịnh-tà, đến cầu th́ người hành-đạo cầu-nguyện và thỉnh Âm-dương thủy (nước cúng trên bàn thờ)cho uống rồi bịnh nhơn tỉnh liền ; măi đến ngày nay, những sự huyền diệu ấy c̣n truyền khẩu trong Nhơn-gian.
CHƯƠNG THỨ HAI ***
NỀN TẢNG ĐI-ĐO ***
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là một nền Tôn-giáo, do Đức Thượng-Đế sáng lập tại xứ Việt-nam. Nền tảng là qui nguyên Tam-giáo, hiệp-nhứt Ngũ-Chi thành một Giáo-lư đại-đồng. Kế đấy, chúng tôi lần lượt giải bày cho rơ nền "Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ", Đức Giáo-Chủ và sự qui hiệp Tam-Giáo, Ngũ-Chi. Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là ǵ ? Theo lẽ thường, ai cũng biết rằng : hễ việc chi đă có lần thứ ba, tất nhiên, trước kia đă có lần thứ nhứt và lần thứ nh́. Th́ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là nền Đạo khai lần thứ ba, tất nhiên trước kia cũng đă có hai lần rồi. Thế nên, chúng tôi xin kể sơ lược Đại-Đạo khai hai lần trước, rồi sau sẽ giải đáp câu hỏi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là ǵ Đại-Đạo Nhứt-Kỳ Phổ-Độ (Thượng-cổ thời-đại) Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật khai Phật-giáo Đức Hồng-Quân Lăo-Tổ khai Tiên-giáo. Đức Văn-Tuyên Đế-Quân khai Nho-giáo. Đại-Đạo Nhị-Kỳ Phổ-Độ (Trung-cổ thời-đại) Đức Thích-Ca chấn hưng Phật-giáo. Đức Lăo-Tử chấn hưng Tiên-giáo. Đức Khổng-Tử chấn hưng Nho-giáo. Ngoài Tam-Giáo, lại có Đức Chúa Jésus Christ lập Thánh-Đạo bên Thái-Tây, Đức Khương-Tử-Nha chủ trương Thần-Đạo tại Trung-Hoa. Thật là Trung-Cổ thời-đại, là thời kỳ văn-minh Đạo-đức cực thạnh, Giáo-pháp hoằng khai, cho nên cũng gọi đó là thời kỳ Ngũ-chi Đại-Đạo phổ biến. Thế đă rơ Đại-Đạo khai hai kỳ trước. Bây giờ xin giải đáp câu hỏi : Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là ǵ ? Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nghĩa là một nền Đạo lớn khai lần thứ ba, Phổ-Độ Chúng-sanh với một cách rộng răi, tức là phổ-độ tất cả Nhơn-Sanh, không phân biệt màu da, sắc tóc ; không phân biệt Tôn-giáo. Hoặc nói trắng ra là đứng trước Đức Thượng-Đế, cả Chúng-Sanh đều là con một Cha, đồng được Đại-Từ-Phụ cứu rổi như nhau. Nhưng, có điều nên lưu tâm là Đại-Đạo khai kỳ ba có khác với hai kỳ trước về mặt h́nh-thức. Đại khái như Đức Giáo-Chủ của Đại-Đạo kỳ ba là Đấng Vô-h́nh ; chớ không phải Giáo-chủ hữu-thể, như thời xưa. Đức Ngài dùng huyền-diệu cơ-bút để dạy đạo. Đó là những điểm mà chúng tôi cứu xét kể đây.
ĐỨC GIÁO-CHỦ ĐI-ĐO
Ngày xưa, khai Tam-Giáo Đức CHÍ-TÔN phân tánh giáng trần mà lập Đạo. Nay Đức Ngài không mượn phàm thể, mà lại dùng huyền-diệu Cơ-bút để truyền Đạo. Ấy vậy nên Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo là Đấng Vô-h́nh. Ngài là Đấng Chủ-tể Càn-Khôn, Thế-Giái ; nhưng, không xưng danh "Ngọc-Hoàng Thượng-đế", mà lại mượn tên "CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐI B--TÁT MA-HA-TÁT". Thánh-danh ấy có ư nghĩa qui nguyên Tam-Giáo ; đại để như sau : CAO-ĐÀI chỉ về Nho-giáo, có nghĩa là cái Đài cao rất mực (Thái-cực) ngôi của Đấng Chúa-tể Càn-khôn mà Nho-giáo sùng bái dưới nhăn hiệu "Thượng-Đế". TIÊN-ÔNG chỉ về một vị Đại-giác Kim-Tiên trong đạo-giáo. ĐI-B--TÁT MA-HA-TÁT chỉ về một vị Phật trong Thích-giáo. Vậy Thánh-Danh "Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" là chỉ về sự qui nguyên Tam-giáo thành một nền Đại-Đạo, nhưng người ta thường gọi vắn tắt là "Đạo Cao-Đài". Vả lại, các v́ Giáo-chủ Tam-giáo ngày xưa vốn là người có thân-thể, tu-hành đắc Đạo, rồi đem cái sở-đắc của ḿnh mà dạy Đời, cho nên người đời tôn lên ngôi Giáo-Chủ. Mà hễ có thân-thể th́ tự-nhiên biết một thứ tiếng bổn xứ mà thôi. Như thế, nếu đem tư tưởng của ḿnh mà truyền-thọ cho người ngoại-quốc th́ có sự trở ngại về ngôn-ngữ bất đồng. Có lẽ v́ lư-do ấy nên Tam-giáo ngày xưa không phổ-truyền rỗng lớn chăng ! C̣n nay, Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo là Đấng Vô-H́nh, dùng huyền-diệu Cơ-bút để dạy dỗ th́ Dân-tộc nào cũng có thể học trực-tiếp với Ông Thầy Trời, nếu họ biết dùng phép "Thông-Thần-lực" (Médiumnité) để thông công. Thế th́ sự bất đồng ngôn-ngữ chẳng c̣n là một vấn-đề thắc mắc nữa.
TAM-GIÁO QUI-NGUYÊN NGŨ-CHI PHỤC-NHỨT
Ngày 24 tháng 4 năm 1926 (Dương-lịch) Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy rằng : "Vốn từ trước, Thầy lập Ngũ-Chi Đại-Đạo là : Nhơn-Đạo Thần-Đạo Thánh-Đạo Tiên-Đạo Phật-Đạo "Thầy tùy phong-hóa của Nhơn-Sanh mà gầy Thánh-Giáo, v́ khi trước "Thế-giái chưa thông đồng. Nhơn-Sanh chỉ hành-đạo nơi tư-phương ḿnh mà "thôi. C̣n nay, Thế-giái tận thức, Nhơn-loại hiệp đồng th́ Nhơn-Sanh "lại bị nhiều Tôn-giáo mà sanh nghịch lẫn. Vậy nên Thầy nhứt định qui "nguyên phục-nhứt. Theo Thánh-ngôn trên đây, Đức Chí-Tôn qui Tam-giáo, hiệp Ngũ-Chi, là có ư muốn các Tôn-giáo liên-hiệp, để tận độ Chúng-Sanh và đó cũng tỏ cho người đời hiểu rằng : Tôn-Giáo mặc dầu ở Phương-đông hay Phương-tây, mặc dầu chẳng giống nhau về h́nh thức, về danh-từ ; song tựu trung Tôn-giáo nào cũng sùng bái một Đấng Cao-cả, Đấng Chúa-tể Càn-khôn Vơ-trụ, hóa sanh muôn loài, tức Ông Cha chung của vạn-vật và các Tôn-giáo đều có một tôn-chỉ chung :"Dạy người làm lành lánh dữ" mà thôi. Thiết tưởng, ngày nào Nhơn-loại nh́n nhau là anh em một Cha, bạn học một Thầy, th́ ngày ấy Nhơn-loại sẽ ḥa-hiệp nhau để chung hưởng hạnh-phúc của Đại-Từ-Phụ dành cho. Thiên-hạ thái-b́nh là một điều mà Tín-Đồ Đại-Đạo cầu nguyện hằng ngày. Nói về giáo-thuyết Đức CHÍ-TÔN đă lập ra Qui-luật, Lễ-nghi thờ cúng và Giáo-lư của một nền Tôn-giáo rồi Đức-Ngài c̣n dạy chúng ta phải tham-khảo Tam-giáo và trích học những điểm có thể đồng hóa với Giáo-lưcủa Đại-Đạo. Thế đủ hiểu nền tảng Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là Tam-giáo qui-nguyên, Ngũ-chi Hiệp-nhứt. Nghi tiết thờ phượng nơi Bát-Quái-Đài đủ chứng-minh điều ấy. C̣n Giáo-thuyết th́ tham bát cả Tam-giáo, Ngũ-chi và chiết lấy những phần nào thích ứngvới tŕnh độ tấn-hóa của Nhơn-Sanh để học-hành.
CHƯƠNG THỨ BA ----
H̀NH THỂ ĐI-ĐO ***
Đức Giáo-Chủ Đại-Đạo là Đấng Vô-H́nh, để đại-diện cho Đại-Đạo tại Thế-gian, Đức Ngài lập một Hội-Thánh, gồm có ba đài kể như sau :
I.- BÁT-QUÁI-ĐÀI
Một ṭa Bửu-Điện kiến-trúc theo h́nh "Bát-Quái" để thờ Đức Thượng-Đế và chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, danh gọi Bát-Quái-Đài. Chúng tôi xin kể nghi-tiết thờ phượng nơi Đài Bát-Quái.
1/ Thánh-tượng thờ Đức CHÍ-TÔN. Trên ngôi cao ngất kia, thờ Thiên-Nhăn, vẽ lên trên quả Càn-Khôn ; chính giữa quả Càn-Khôn, thường đốt một ngọn đèn sáng. Đó là tượng-trưng thờ Đức Thượng-Đế, ngự trên ngôi Thái-Cực. Đức Ngài là Chúa-Tể Càn-Khôn, thống trị vạn-vật, nay chưởng-giáo Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Ngài tá danh "CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐI-B--TÁT MA-HA-TÁT", mà chúng tôi đă giải bày nơi trang trước. a) Quả Càn-Khôn. Thánh-Ngôn.- "Quả Càn-Khôn h́nh tṛn như trái "đất, bề kính tâm ba thước, ba tấc ; lớn quá ; song, phải vậy mới hạp "với cơ mầu-nhiệm Tạo-Hóa. "Màu xanh da Trời, cung Bắc-Đẩu và các v́ Tinh-tú phải có đủ trên "quả Càn-Khôn. Các con thể theo sách Thiên-văn, vẽ ngôi Bắc-Đẩu tỏ rơ, "bên cạnh có hai bánh lái, trên ngôi Bắc-Đẩu vẽ Thiên-Nhăn mà thờ. "Đáng lẽ quả Càn-Khôn phải làm bằng pha-ly, chính giữa thường đốt "một ngọn ThÁi-Cực đăng. Ấy là phép cầu nguyện chung cho cả Nhơn-loại "nhưng, chưa kịp th́ các con tùy tiện mà làm. C̣n chư Thần, Thánh, "Tiên, Phật lên cốt rồi cứ để dài theo phía dưới". b) Thiên-Nhăn Nay như hỏi tại sao thờ Thiên-Nhăn lài gọi là thờ Trời, th́ Thánh-Ngôn nói rằng : "Nhăn thị chủ Tâm ; "Lưỡng quang chủ-tể ; "Quang thị thần ; "Thần thị Thiên ; "Thiên giă ngă dă. Nghĩa là : Mắt là chủ Tâm ; hai yếng-sáng trong mắt là Chủ-tể ; yếng-sáng là Thần ; Thần là Trời ; Trời là Ta vậy. C̣n một lẽ nữa : cơ mầu nhiệm của sự đắc Đạo là Thần hiệp với Khí-Tinh, tức Tam-bửu huờn nguyên th́ mới siêu phàm, nhập Thánh. Trái lại, nếu có Tinh-Khí mà chẳng có Thần th́ không thể nhập cảnh Hằng-sống. Thờ Thiên-Nhăn cũng là tiết lậu cơ đắc Đạo : bởi Thần là món báu thứ nhứt phải có và phải hiệp với Tinh-Khí th́ người mới tạo được Nhị-xác-thân mà vào cơi An-nhàn tự tại; Lại có Thánh-Ngôn của Đức CHÍ-TÔN dạy rằng : "Từ ngày Đạo bế, tu th́ nhiều mà người đắc Đạo vốn ít, v́ Thần là "cơ mầu-nhiệm mà lại bị khiếm. Nay Thầy đến huờn nguyên Tam-bửu cho "các con đắc Đạo. Các con hiểu Thần cư tại Nhăn th́ nên bố-trí cho "Đạo-hữu các con hiểu với. Nguồn Tiên Phật yếu nhiệm tại đó". Vả lại, Đại-Đạo Nhứt-Kỳ và Nhị-Kỳ Phổ-Độ Đức Giáo-Chủ có phàm thể, cho nên người ta dùng cốt tượng để thờ. C̣n nay khai Đại-Đạo Tam-Kỳ, Đức CHÍ-TÔN không giáng trần, lại dùng phép huyền-diệu Cơ-bút mà lập giáo. Ấy vậy sự thờ Thiên-Nhăn cũng chỉ về thờ Thần, mà Thần là Trời vậy. 2/ Tam-Giáo và Ngũ-Chi Nghi tiết thờ Tam-giáo, Ngũ-chi kể như vầy : a) Tam-giáo : Kế cận quả Càn-Khôn, thờ Đức Thích-Ca. Tả có Đức Lăo-Tử. Hữu có Đức Khổng-Phu-Tử. Đó là thờ ba vị Giáo-chủ Thích, Đạo, Nho. Đức Lư-Thái-Bạch là Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm. Đức Quan-Âm là Nhị-Trấn Oai-Nghiêm. Đức Quan-Thánh Đế-Quân là Tam-Trấn Oai-Nghiêm. Ba vị nầy đại diện cho Tam-giáo trong cơ Phổ-Độ kỳ ba. b) Ngũ-Chi : Ngôi Giáo-Tông, Chưởng-Pháp, Đầu-Sư tượng-trưng Nhơn-Đạo Đức Khương-Thương tượng-trưng Thần-Đạo Đức Chúa Jésus-Christ tượng-trưng Thánh-Đạo. Đức Lư-Thái-Bạch tượng trưng Tiên-Đạo. Đức Thích-Ca tương trưng Phật-Đạo. Tóm lại, Bát-Quái-Đài là nơi hội Công-Đồng Tam-Giáo, Ngũ-Chi, Đức Chí-Tôn vi chủ, cũng như Hồn-Đạo ; cả Giáo-pháp do Đài nầy truyền ra.
*
II.- HIP-THIÊN-ĐÀI
Theo danh từ mà cắt nghĩa : Hiệp-Thiên-Đài là cái đài hiệpvới Trời, có phận sự làm trung gian, kết liên Bát-Quái-Đài và Cửu-Trùng-Đài thành một Hội-Thánh. Có phận sự làm môi giới cho Bát-Quái-Đài vô-vi và Cửu-Trùng-Đài hữu h́nh, thành thử Hiệp-Thiên-Đài có hai nhiệm vụ là : 1) Thiêng-liêng 2) Phàm-trần 1- Nhiệm vụ Thiêng-liêng. Hiệp-Thiên-Đài là nơi Đức CHÍ-TÔN ngự, tiếp xúc với Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài, tức là nơi Đức CHÍ-TÔN và các Đấng Tiêng-Liêng giáng cơ truyền-giáo. Điều quan trọng là nếu chẳng có Hiệp-Thiên-Đài th́ Cửu-Trùng-Đài không thông công với Bát-Quái-Đài hoặc nói rơ ra là : nếu chẳng có Hiệp-Thiên-Đài th́ người chẳng có phương tiện thông công với Trời. Thế nên Đức CHÍ-TÔN dạy : "Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng-Liêng mối Đạo. "Hễ Đạo c̣n th́ Hiệp-Thiên-Đài c̣n. Lại nữa, Hiệp-Thiên-Đài là nơi "Giáo-Tông đến tiếp xúc với Tam-thập-lục-thiên, Tam-Thiên-Thế-Giái, "Lục-Thập-Bát-Địa-cầu, Thập-Điện-Diêm-Cung, đặng cầu siêu cho "Nhơn-loại. 2- Nhiệm vụ Phàm-trần. Hiệp-Thiên-Đài có ba chi :"Pháp-, Đạo, Thế". Đức CHÍ-TÔN dạy : "Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp chưởng quản. Tả có Thượng-Sanh, "hữu có Thượng-Phẩm. Thầy lại chọn Thập-Nhị-Thời-Quân chia ra làm ba "chi : "Hộ-Pháp chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài, kiêm chi Pháp dưới có : Bảo-Pháp Hiến-Pháp Khai-Pháp Tiếp-Pháp "Chi-Pháp lo bảo hộ luật Đời và luật Đạo, chẳng ai hành-động "sai luật mà Hiệp-THiên-Đài không biết "Thượng-Phẩm chỉ-huy phần Đạo, dưới có : Bảo-Đạo Hiến-Đạo Khai-Đạo Tiếp-Đạo "Chi Đạo lo phần Đạo, nơi các Tịnh-thất, và các Thánh-thất, xem "xét chư Môn-đệ Thầy, binh vực chẳng ai phạm luật, đến khổ khắc đặng. "Thượng-Sanh chỉ huy phần Thế, dưới có : Bảo-Thế Hiến-Thế Tiếp-Thế Khai-Thế Tiếp-Thế "Thầy khuyên các con lấy tánh vô-tư mà hành-đạo. Thầy cho biết "trước rằng : Có trọng quyền ắt có trọng phạt". Tóm lại, cả Giáo-Pháp của Đại-Đạo do Bát-Quái-Đài truyền ra. Hiệp-Thiên-Đài có phận sự truyền-bá Giáo-Pháp cho Cửu-Trùng-Đài và giữ-ǵn Giáo-Pháp ấy cho khỏi bị canh cải.
*
III- CỬU-TRÙNG-ĐÀI
Bát-Quái-Đài tỷ như Hồn-Đạo, cả Giáo-Pháp do Đài nầy truyền dạy. Cửu-Trùng-Đài tỷ như Thể-Đạo, cả Giáo-Pháp nương Đài nầy mà h́nh dung Đạo-Đức ra Thế-gian để Đời soi sáng. Theo chữ mà cắt nghĩa : Cửu-Trùng-Đài là cái Đài thể theo Cửu-Trùng-Thiên mà kiến trúc, có chín nấc : cao thấp khác nhau, Cửu-Phẩm Thần-Tiên vâng lịnh Ngọc-Hư-Cung trị Thế-Giới vô h́nh, cũng như Cửu-Trùng-Đài vâng lịnh Bát-Quái-Đài mà chưởng quản mối Đại-Đạo tại Thế-gian, về mặt hữu vi. Vậy tất cả Chơn-linh trong Càn-Khôn, Vơ-Trụ đều phải vào Cửu-Trùng-Đài và tuần tự theo đẳng cấp thấp cao để đoạt vị Thiêng-Liêng của ḿnh; Cửu-Trùng-Đài do một Hội-Thánh quản trị, mạng danh là Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài gồm có một phÁi Nam và một phái Nữ. Đức CHÍ-TÔN lập Pháp-Chánh-Truyền cho cả hai phái như vầy : 1) Chức-sắc Nam-Phái. "GIÁO-TÔNG.- Là anh cả của các con, có quyền thay mặt cho Thầy "d́u dắt các con, trong đường Đạo và đường đời. Có quyền về phần xác "mà chẳng có quyền về phần Hồn. Giáo-Tông đặng phép thông-công cùng Tam-Thập-Lục-Thiên và Thất-Thập-Nhị-Địa-Cầu rổi cho các con. "CHƯỞNG-PHÁP.- Ba vị Chưởng-Pháp của Tam-Giáo, tuy phân biệt, "song trước mặt Thầy, coi như một, có quyền xem xét luật lệ, trước khi "ban hành, hoặc nơi Giáo-Tông truyền xuống, hoặc dưới Đầu-Sư dâng lên. "Nếu cả hai chẳng thuận, Chưởng-Pháp phải dâng lên Hộ-Pháp, đến "Hiệp-Thiên-Đài, cầu Thầy sửa chữa, hay tùy ư lập luật khác. "Chưởng-Pháp có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông. Nếu có "kinh điển nào làm tồi bại phong-hóa, Chưởng-Pháp có quyền trừ bỏ. "Buộc cả Tín-Đồ phải giúp Chưởng-Pháp hành-sự. Trước luật Đời, Thầy "khuyên các con rán giúp đỡ lẫn nhau. Chưởng-Pháp, mỗi vị có ấn riêng. "Ba ấn phải đủ trên mặt luật, mới đặng thi hành. "ĐẦU-SƯ.- Ba vị Đầu-Sư có quyền cai-trị phần Đạo và phần Đời "của chư Môn-Đệ. Đầu-Sư có quyền lập luật, song phải dâng lên cho "Giáo-Tông phê-chuẩn. Muốn phê-chuẩn luật-lệ, Giáo-Tông phải giao cho "Chưởng-Pháp xem xét trước, coi luật-lệ ấy quả thật có ích cho "Nhơn-Sanh chăng ! Ba vị Đầu-Sư phải tuân lịnh Giáo-Tông truyền dạy. "Thoảng có luật lệ nào quá hà khắc Tín-đồ, Đầu-Sư có quyền xin hủy "bỏ. Thầy khuyên các con rán giúp Đầu-Sư trong khi hành-sự. ThẦy lại "dặn các con, nếu có điều cần, nên nài xin nơi Đầu-Sư. "Ba chi tuy khác, song quyền hành như một. Luật lệ nào của "Giáo-Tông truyền dạy, mà cả ba đồng bất tuân, th́ luật-lệ ấy phải "trả lại Giáo-Tông, truyền lịnh cho Chưởng-pháp xem xét. Ba vị "Đầu-Sư có ba ấn khác nhau. Mỗi giấy tờ phải có đủ ba ấn mới đặng thi "hành. "PH-I-SƯ.- Mỗi phái có mười hai người, ba phái cộng lại thành "36 vị. Trong số 36, tuyển ra ba vị Chánh Phối-Sư để thế quyền Đầu-Sư "mà hành sự, song chẳng có quyền phá luật-lệ. "GIÁO-SƯ.- Giáo-Sư có 72 người, mỗi phái có 24 vị. Giáo-Sư là "người dạy dỗ Tín-đồ trong đường Đạo và đường Đời. Buộc Giáo-Sư phải "lo lắng cho Tín-đồ, cũng như anh lo cho em. Giáo-Sư cầm sổ bộ Tín-đồ, "chăm nom việc tang hôn. Tại châu-thành lớn, Giáo-Sư có quyền cai quản "Thánh-Thất, cúng tế Thầy, như Đầu-Sư và Phối-Sư. Giáo-Sư có quyền "dâng sớ, kêu nài sửa đổi, hoặc chế giảm luật lệ nào quá hà khắc "Nhơn-sanh. Giáo-Sư thân mật với mỗi đứa môn-đệ, như anh em một nhà, "cần phải giúp đỡ. "GIÁO-HU.- Giáo-Hữu là người phổ thông nhơn Đạo, có quyền cầu "xin chế giảm luật lệ. Ba ngàn Giáo-Hữu chia đều mỗi phái một ngàn, "chẳng đặng tăng thêm, hay giảm bớt. Giáo-Hữu đặng phép hành lễ, khi "làm chủ một ngôi Chùa trong mấy tỉnh nhỏ. "LỄ-SANH.- Lễ-Sanh là người có hạnh, lựa chọn trong hàng chư "môn-đệ, để hành lễ, có quyền khai đàn cho Tín-đồ. Thầy dặn các con : "Lễ-Sanh là người Thầy yên mến, chẳng nên hiếp đáp. Vào hàng Lễ-sanh "mới mong bước qua Chức-Sắc ; trừ ra, Thầy phong thưởng riêng mới qua "khỏi luật lệ ấy. CHÁNH PHÓ TR-SỰ và THÔNG-SỰ.- Pháp-Chánh-Truyền trên đây, "thoạt tiên, dự định đến phẩm Lễ-Sanh thôi ; nhưng, về sau, Đại-Đạo "ngày một phổ-thông, người nhập môn ngày một nhiều. Hội-Thánh thiếu "người chăm nom phổ hóa, Đức Lư Giáo-Tông bèn đặt thêm hai phẩm "Chức-việc nữa, là Chánh Phó Trị-Sự và Đức Hộ-Pháp đặt thêm phẩm "Thông-Sự. Ba phẩm Chức-việc nầy có phận sự săn sóc Đạo-hữu ở rải rác "khắp nơi, từ thôn-quê đến thành-thị và ḥa giải những tư-tưởng bất "đồng giữa Tín-đồ.
LỄ-PHỤC
Lễ-phục hay y-quan mặc hành-lễ trong giờ cúng tế. Lễ phục của Chức-sắc khác nhau, từ màu sắc đến kiểu mẫu. Màu-sắc.- Thích-giáo màu vàng ; Đạo-giáo màu xanh da trời ; Nho-giáo màu đỏ điều. Người bàng-quan trông vào màu áo có thể biết vị Chức-sắc kia thuộc phái nào. Kiểu mẫu.- Người bàng quan trông vào kiểu áo măo cũng có thể biết vị Chức-sắc ấy lănh phận sự chi.
*
II.- CHỨC-SẮC N-PHÁI
"ĐẦU-SƯ N-PHÁI.- Nữ-phái có một vị Đầu-Sư d́u dắt. Đầu-Sư "Nữ-phái đồng quyền với Nam-phái, tuân lịnh một Giáo-Tông và ba "Chưởng-Pháp. Đầu-Sư Nữ-Phái cũng tùng chung một luật phân xử, trong "đường Đạo và đường Đời và luật công-cử của Hội-Thánh ban hành. "Đầu-Sư Nữ-phái dùng lễ-phục như Đầu-Sư Nam-phái, song có đội "măo Phương-Thiên và Ni-Kim-Cô, như các văi ở chùa ; trên chót có "Thiên-Nhăn, bao quanh một ṿng Minh-Khí, choàng một đoạn lụa màu "trắng, từ Kim-Cô thả xuống tới gót chân. Áo may bằng hàng trắng, chín "vải, có thêu bông-sen, chưn đi giày vô-ưu, trên mũi có thêu chữ "Hương". "PH-I-SƯ.- Phối-Sư mặc lễ-phục y như Đầu-Sư, song chẳng đội "măo Phương-Thiên. Áo ba vải, trước ngực có Thiên-Nhăn bao quanh một "ṿng Minh-Khí. "GIÁO-SƯ.- Giáo-Sư mặc áo ba vải, đội Kim-Cô hằng hàng trắng, "chơn chẳng đi giày. "GIÁO-HU.- Giáo-Hữu mặc lễ-phục như Giáo-Sư, đầu không đội "măo, nhưng có giắt bông sen, có thêu Thiên-Nhăn. "LỄ-SANH.- Lễ-Sanh mặc áo như Giáo-hữu, choàng ngang trên đầu một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí vắn, một mí dài, trên đầu giắt bông sen. CHÁNH PHÓ TRI-SỰ và THÔNG-SỰ.- Hội-thánh Nữ-phái cũng có ba phẩm và ba phẩm nầy có phận sự cũng như Nam-phái.
*
LUT CÔNG-CỬ CHUNG CHO CHỨC-SẮC NAM VÀ N-PHÁI
Thánh-Ngôn.- "Đầu-Sư muốn lên Chưởng-Pháp, nhờ ba vị Đầu-Sư "công-cử ; Phối-Sư muốn lên Đầu-Sư, nhờ 36 vị Phối-Sư công cử ; "Giáo-sư muốn lên Phối-Sư, nhờ 72 vị công-cử ; Giáo-hữu muốn lên "Giáo-sư, nhờ 3000 vị Giáo-Hữu công-cử ; Lễ-Sanh muốn lên Giáo-Hữu, "nhờ cả Lễ-Sanh công-cử, trừ ra Thầy giáng cơ phong thưởng riêng "người nào th́ người ấy mới ra ngoài luật lệ ấy. "Giáo-tông có hai phẩm đặng phép dự cử là : Chưởng-pháp và "Đầu-sư, song phải chịu toàn Đạo công-cử. Trừ ra, Thầy giáng cơ "phong thưởng riêng, mới ra ngoài luật lệ ấy. "Hiện nay, Chức-sắc chưa đủ số đă định, thành ra luật công-cử "nầy chưa thi hành được. Hôm ngày 9 tháng 4 năm 1958 nhằm 21 tháng 2 "Mậu-Tuất, Đức Lư-Đại-Tiên, Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm cho một điều luật, để "thi hành tạm như sau : "Về việc ban thưởng Chức-Sắc, không phải có đủ 5 năm thâm-niên "sắp lên là đủ điều-kiện cầu thăng và được thăng mà cần phải có những điều kiện cần yếu khác nữa là : "Thứ nhứt : Phương-diện hạnh-đức. "Thứ nh́ : Tŕnh-độ học-thức. "Thứ ba : Tinh-thần phục-vụ "Thứ tư : Khả-năng giáo-hóa Nhơn-sanh. "Là v́, hễ đến bực Giáo-Hữu là thay mặt CHÍ-TÔN phổ-thông "chơn Đạo, thành thử, chẳng phải người thường t́nh đặng, mà phải "đáng mặt phi thường mới xứng. Kỳ nầy Lăo châm chế, chớ những kỳ "cầu thăng sau, Chức-sắc mỗi cấp bực đủ 5 năm thâm-niên, hay hơn nữa "chỉ được đem vào sổ cầu thăng với tỷ lệ bốn phần năm mà thôi, "Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài phải cân phân phận sự xứng đáng của Chức-sắc "do theo điều kiện của Lăo vừa chỉ và sau khi chọn lọc kỹ-lưỡng số tỷ "lệ quy-định, giao qua cho Hiệp-Thiên-Đài kiểm soát lại, rồi mới dâng "lên cho Lăo, Hiền-hữu Thượng-Sanh và chư vị Thời-quân nên lưu-tâm "nghe ! "Sự cầu-thăng của Nữ-phái cũng do theo nguyên tắc đó và Thánh "Giáo nầy có hiệu lực cho đến ngày Cửu-Trùng-Đài thực hiện luật "công-cử của Đạo. Nói tóm lại, Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài gồm có Chức-sắc Nam và Nữ, như vừa kể qua, có phận chung là bảo tồn Giáo-pháp, Đạo-luật, và phổ-thông quần-linh. Đức CHÍ-TÔN nói rằng : Khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Ngài chọn Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam-Thập-Lục Thánh, Thất-Thập Nhị-Hiền và Tam-Thiên Đồ-đệ. Ấy là chỉ vào: Một Giáo-Tông Ba Đầu-Sư Ba mươi sáu Phối-Sư Bảy mươi hai Giáo-Sư Ba ngàn Giáo-Hữu Theo Đạo-học, hễ muốn độ người, trước phải độ ḿnh như nhà Phật thường nói :"Tiên tự giác nhi hậu giác tha". Đây là một điểm khác nhau ở giữa nhà Đạo-đức và Văn-sĩ. Nhà Đạo-đức, chẳng những phải học Đạo-lư mà phải thi hành thế nào cho Đạo-lư biến thành Tâm đức của ḿnh nữa, để rồi áp dụng vào đời sống thực tế. Người bàng quan xem vào cử chỉ của người đạo-đức mà bắt chước. Trái lại, người văn-sĩ chỉ học cho biết văn-chương và chơn-lư mà thôi. Ấy vậy, Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài phải học hành, tu luyện thế nào, hầu đặng ḿnh có đủ tài đức, để nêu gương lành cho Đời soi sáng. Đó là một lẽ, c̣n như thể theo danh-từ mà luận : Chức-sắc Hội-Thánh, tức một vị Thánh-nhơn ở trong nhiều vị Thánh-Nhơn khác. Theo hai lẽ đó mà suy rộng ra : một vị Chức-sắc, nếu chưa phải hoàn toàn là vị Thánh-nhơn, th́ ít ra cũng phải có đủ tài-đức d́u dắt Nhơn-sanh trên đường Đạo-lư, Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, sau nầy, hoặc thành, hoặc bại, đều tùy cử chỉ và hành-vi của Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài mà ra cả ; v́ Đài nầy là h́nh thể của Đại-Đạo.
CHƯƠNG THỨ TƯ ----
LỄ-NGHI VÀ ĐO-LUT ----
a)-LỄ-NGHI
LỄ-NGHI THỜ CÚNG NƠI ĐỀN-THÁNH
Trong Bát-Quái-Đài có quả Càn-Khôn ; trên quả Càn-Khôn có Thiên-Nhăn ; giữa quả Càn-Khôn thường đốt một ngọn đèn, tượng trưng ngôi Thái-Cực. Tóm lại đó là tượng trưng thờ Đức Thượng-Đế ngự trên ngôi Thái-cực. Khi cúng-tế, đốt hai ngọn đèn hai bên, danh gọi lưỡng nghi quang, tượng trưng Âm và Dương. Giữa bàn thờ đốt năm cây hương, tượng trưng Ngũ-hành. Nghi lễ thờ phượng cúng tế nơi Bát-Quái-Đài, miêu tả được lư Đại vô-vi ; vốn có Thái-cực biến sanh Âm-Dương, Ngũ-hành và Âm-Dương, Ngũ-hành thuận-hành, nghịch chuyển mà định vị Trời đất, hoá sanh muôn loài. Kẻ học, nếu biết quan sát th́ có thể ư hội được một bài học Đạo-lư. Lễ-Nhạc.- Đức CHÍ-TÔN dạy chúng ta dùng lễ-nhạc để cúng tế như xưa. Vậy sự hữu-ích của Lễ-Nhạc là làm sao, chúng ta cũng nên xét qua cho rơ. Lễ.- Khi cúng tế, anh Lễ-sĩ áo măo chỉnh tề, hai tay nâng tế-phẨm lên ngang mày, rồi từ từ theo nhịp nhàng của Âm-nhạc điện lễ đi lên. Cái vẻ tề-chỉnh trang nghiêm ấy khiến người trông thấy phải sanh ḷng kính. Thế th́ tinh-thần của LỄ là Kính. Nhạc.- Tiếng trống, chuông, đờn, kèn, tiêu, thiều, nhiều thứ âm thinh khác nhau, đồng thời phát khởi một lượt. Đáng lẽ, chúng ta nghe hổn loạn lắm ; nhưng sự thiệt lại khác hẳn. Tiếng lớn nhỏ, giọng phù trầm, dường như nhịn nhường lẫn nhau, để cho mỗi nhạc cụ được thung dung bày tỏ sở-năng của nó. Thế nên, người ta nh́n nhận tinh-thần của Nhạc là ḥa. Sách Lễ-kư chép rằng : Lễ là trật-tự của Trời-Đất, Nhạc là cái điều-ḥa của Trời-Đất (Lễ giă Thiên Địa chi tự, Nhạc giă Thiên Địa chi ḥa). Sở dĩ nói như thế là v́ Thánh-Nhơn ngày xưa, quan sát cảnh tượng Vơ-trụ, nhận ra luật trật-tự và thái-ḥa của Trời-Đất, rồi theo đó mà chế thành Lễ-Nhạc, để cúng tế, làm cho đàn-tế trở nên tôn-nghiêm và tạo ra một bầu không khí kỉnh ḥa, để cho mọi người triêm-nhiểm cái tập-quán đạo-đức. Đó là một phương-pháp hàm-dưỡng tâm tánh vậy. Thật Thánh-nhơn chế ra Lễ-Nhạc tế tự, có sức mạnh cảm hóa ḷng người rất sâu xa. Tỉ như : khi vào chùa miễu th́ ḷng ta kính tín ; c̣n khi thấy đám tang th́ ḷng ta bùi ngùi thương xót. Nay Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ dùng Lễ-Nhạc cũng không ngoài ư cảm hóa ḷng người khuynh hướng về đạo đức vậy.
Lễ Dâng Tam-Bửu
Mỗi khi cúng đàn, chúng ta dâng Hoa-Rượu-Trà gọi là "Dâng Tam-Bửu", có ư nghĩa thế nào ? Xin xem kế đây : HOA : - Tượng trưng TINH RƯỢU : - Tượng trưng KHÍ TRÀ : - Tượng trưng THẦN Lễ dâng Tam-Bửu là một cách tiết lậu cho người hiểu rằng : trogn châu thân người vốn có TINH-KHÍ-THẦN. Ba món báu ấy phải huờn nguyên hiệp nhứt th́ mới đắc Đạo. Lạy là ǵ ? Thánh ngôn nói : "Lạy là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong ḷng. "Chắp tay lạy là tại sao ? "Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm-Dương ; Âm-Dương hiệp nhứt "phát khởi Càn-Khôn, sanh sanh hóa hóa. Ấy là Đạo. "Lạy kẻ sống hai lạy là tại sao ? "Là nguồn gốc của Nhơn-sanh lưỡng-hiệp mà ra. "Vong phàm lạy bốn lạy là tại sao ? "Hai lạy phần người, một lạy Trời và một lạy Đất. "Lạy Thần Thánh ba lạy là tại sao ? "Là lạy Đấng ở vào thứ ba của Trời, và cũng chỉ về Tinh-Khí-Thần "hiệp-nhứt. Ấy là Đạo. "Lạy Tiên Phật chín lạy là tại sao ? "Là lạy chín Đấng Cửu-Thiên Khai-hóa. "C̣n lạy Thầy 12 lạy là tại sao ? "Các con không hiểu đâu : Thập-Nhị Khai-Thiên là Thầy, Chúa-tể "Càn-Khôn Thế-Giái, nắm trọn Thập-Nhị Thời-Thần vào tay. Số 12 là số "riêng của Thầy;
Cúng Tứ-Thời Mỗi ngày, người Tín-đồ Đại-Đạo phải có bốn lần hầu lễ, gọi là cúng Tứ-Thời (Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu). Vừa xem qua th́ người bàng-quan lầm tưởng : sự cúng tế là tại có tánh ỷ iại nơi Thần-quyền ; nhưng, sự thiệt, đó là một phương pháp hàm-dưỡng Tâm-tánh rất nhiệm mầu. Xem như trước khi vào Đền-Thánh đặng chầu lễ CHÍ-TÔN th́ chúng ta đă gạt bỏ những sự ưu tư, trần-tục ra ngoài. Đến khi nhập đàn, lần lượt Nhạc Lễ phát khởi. Đồng-Nhi tụng kinh. Hoàn cảnh trang nghiêm nầy khiến ḷng chúng yên lặng và chỉ có một ư niệm thành kính Trời Phật mà thôi. Giá như chúng ta cứ giữ măi cái Tâm-trạng "Thành kính" nầy th́ chúng ta sẽ giữ trọn vẹn nguồn Thiên-lư ở trong Tâm-gian của ḿnh ; tức cũng như câu sách nói rằng :"Nhơn-dục tận tịnh Thiên-lư lưu hành". Nghĩa là ḷng Nhơn-dục yên tịnh th́ Thiên-lư làm chủ Tâm-gian. C̣n một lẽ nữa là theo Đạo tự nhiên, Ngươn-khí Trời Đất, mỗi ngày vượng bốn thời : Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu. Thời nầy kẻ học đạo nên tịnh tâm, tịnh thân của ḿnh, để hàm dưỡng khí riêng của Trời Đất. C̣n khi đến trước Thiên-bàn, chúng ta bắt ấn Tư và niệm Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng ; ấy là ư nghĩa làm sao ? Nam-Mô Phật .- Miệng nói, tâm niệm th́ chúng ta nhớ rằng : Bổn-phận chúng ta chẳng khá quên Đấng "Toàn-Tri". Ḷng ghi nhớ Đức Ngài để rồi noi theo chơn đức Ngài mà tiến bước trên đường tu tỉnh. Nam-Mô Pháp. - Ấy là nhắc chúng ta nhớ lại rằng : Đạo-pháp huyền-vi, nhưng quí báu vô ngằn, mặc dầu khổ hạnh, chúng ta phải gắng sức làm theo ; chớ chẳng khá thối chí. Nam-Mô Tăng.- Hội-Thánh là một nhóm Lương-sanh đại-diện cho Đức CHÍ-TÔN, để d́u dắt chúng ta. Vậy chúng ta phải tuân lời dạy dỗ của Hội-Thánh, để tiến bước trên đường học Đạo. Tóm lại, trong sự cúng tế Trời Phật, tuy là h́nh thức mặc dầu, song h́nh thức ấy đem lại nhiều kết quả tinh-thần như : a)- Trong lúc cúng tế th́ tinh-thần và vật thể của chúng ta đều tịnh định ; mà hễ tịnh định th́ chúng ta hàm-dưỡng được khí-thiêng của Trời-Đất. b)- Trau rửa tâm hồn, về phương diện nầy đức CHÍ-TÔN dạy rằng :"Trước khi vào lạy Thầy buổi tối, phải tự hỏi ḿnh coi phn sự ngÀy ấy xong hay chưa và Lương-tâm có cắn rứt điều chi chăng ? Nếu phn sự c̣n nét chưa rồi ; Lương-tâm chưa an-tịnh th́ phải biết cải quá, rán chuộc lấy cái lỗi của ḿnh đă lầm th́ các con chẳng lo chi không b́ bực Chí-Thánh. Thầy mong rằng mỗi đức đều lưu ư về sự sửa ḿnh. Đặng vậy th́ may mắn cho Đạo và các con sẽ đặng thung-dung mà nêu gương cho kẻ khác". Vậy đủ rơ, cúng tế là một phương pháp tu tâm rất nhiệm mầu, cho nên Thất-nương Diêu-Tŕ-Cung nói : "Lễ bái thường hành, Tâm Đạo khởi".
Thờ cúng Ông Bà nơi Tư-gia
Thờ cúng Tổ-Tiên là lễ tỏ ḷng tôn kính nguồn gốc sanh thành dưỡng-dục. Ḷng tôn kính ấy nơi người Việt-Nam, theo Nho-giáo thườgn phát biểu với một phương-thức rẤt tôn trọng. Người Việt-Nam ấy giàu, cũng như nghèo, khi cất nhà xong th́ chọn một chỗ tôn-nghiêm hơn hết, để lập bàn thờ Ông Bà. Ngày tế-tự, cả gia-tộc đều họp về nhà thờ, lo việc tế lễ. Hai ngày Tiên-thường và Chánh-giỗ, những người họ hàng vui vầy có khi nhắc lại sự tích Tổ-tiên, có lúc hỏi việc hàn huyên gia-tộc. Giờ cúng tế, mỗi người đều có ḷng thành kính rất mực. Khi ra vào, lúc qua lại, trước bàn thờ, họ cúi đầu tỏ vẻ sợ sệt, dường như Ông Bà đương ngự trên chỗ sở tôn. Giờ cúng tế ấy, hoàn cảnh im phăng-phắc, người Trưởng-tộc hành lễ rồi con cháu theo thứ tự vái lạy nghiêm trang. Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-độ giữ nguyên vẹn sự thờ cúng Ông Bà, như đă nói trên. Vả chăng, đạo hữu đă có sẵn ḷng đạo-đức rồi ; nay đem ḷng nhân đức ấy để thờ cúng Ông Bà th́ có lẽ cái phong tục xưa sẽ được thêm phần thuần mỹ hơn nữa.
*
Tóm lại, lễ-nghi, tế-tự đă kể qua : từ Đền-Thánh đến Tư-gia, thật là một bài học thực hành giản-dị mà đem lại nhiều kết quả. Tỷ như việc cúng tế đă đ̣i hỏi một ḷng thành kính rồi, lễ-nhạc và nghi-tiết bên ngoài lại giúp cho ḷng thành kính được quảng-đại thêm lên. Đó là tạo một không khí đạo-đức cho gia-đ́nh xă-hội, c̣n riêng về cá nhân th́ đó là một phép hàm dưỡng Tâm-tánh rất đắc lực.
b)- Đạo-Luật.
Nhà nước có Quốc-pháp, cả Công-dân phải tuân hành đặng bảo-an xă-hội. Tôn-giáo có Đạo-Luật, cả Tín-đồ phải tùng đặng vững bước trên đườgn tu tỉnh. Quốc-pháp và Đạo-Luật, h́nh thức tương-đồng mà kết-quả tương-dị. Nhà cầm quyền phạt kẻ phạm Quốc-pháp. Đạo-luật chẳng có h́nh phạt, làm hậu thuẩn, song cách thưởng phạt rất công b́nh và chặt-chẽ, bởi v́ Đạo-luật vốn là biến tướng Thiên-điều, nghĩa là Đạo-luật do luật Trời mà làm ra, người làn lành tự nhiên có phước đức trả lại, kẻ làm dữ tự nhiên có tai họa trả lại. Cách thưởng phạt lành dữ một măy không sai chạy. Lưới Trời dường như thưa mà chẳng lọt một mảy lành dữ. Ấy vậy nên kẻ học Đạo cần phải có đức-tin luật công-b́nh Trời Đất th́ mới có dạ tuân-hành Đạo-luật. Tất cả Linh-hồn đều phải chịu dưới quyền thưởng phạt của Đấng cầm cân Thiêng-Liêng là Thượng-Đế. Luật thưởng phạt, về nguyên tắc rất đơn-giản, không có Ṭa-án, không có tra-vấn, thế mà kết-quả rất kỳ-diệu ; mỗi việc lành dữ đều có báo ứng phân minh,cho nên có câu nói :"Dối người c̣n dễ, đối Trời được đâu". Có người sánh luật Trời như luật Hấp-dẫn (La Loi d'attraction) hay luật Trọng-lực (La Loi de pesanteur). Linh hồn có tội lỗi, tự nhiên bị hấp-lực của vật-chất mà phải giam hăm vào bánh xe luân-hồi sanh-tử. C̣n Linh-hồn Thiện-mỹ, nhẹ nhàng tự-nhiên siêu thoát rangoài ṿng Càn-khôn, một cách dễ dàng mau lẹ, cũng như lằn tư-tưởng xẹt đi kia vậy. Mỗi tư-tưởng, mỗi lời nói và mỗi việc làm trong đời hiện tại đều lưu-tồn phần tinh-anh ở trong Thể-phách, măi đến khi tử hậu. Thể-phách bày ra một bản thống-kê, có đủ việc hay, việc dỡ, điều-lành, điều-dữ. Trước bản thống-kê nầy, Linh-Hồn lặng lẽ ngắm xem tội-t́nh, phước-đức của ḿnh và phán-đoán lẽ siêu-đọa cho kiếp vị-lai. Sự phán đoán đó do Thần Lương-tâm của người mà cũng là Trời nữa ! Giờ nầy người mới hiểu Trời ở bên cạnh Người. Pháp-luật của Đại-Đạo là biến-thể luật Trời ; thành thử kẻ học, ngoài sự châm theo luật-pháp, c̣n phải kiên sợ luật Nhơn-quả nữa. Đạo-luật của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-độ kể như sau : Lập Họ-Đạo. Nhập Môn. Ngũ-giới-cấm. Tứ-Đại Điều-qui. Luật xử-thế Luật xuất-thế. *
Lập Họ-Đạo
Địa-phương nào có hơn năm trăm Tín-đồ, đặng phép lập riêng một Họ-Đạo, đặt riêng một Thánh-Thất và Hội-Tháhn sẽ phái Chức-sắc đến cai-quản. Muốn lập Học-Đạo phải xin phép Giáo-Tông. Chức-sắc cai-quản Họ-Đạo và Thánh-Thất phải tuân mạng lịnh Giáo-Tông. Tín-đồ trong Họ-Đạo phải tùng quyền vị Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất ; chẳng aicó quyền canh cải luật Đạo. Mỗi thánh có hai ngày Đại-lễ : Sóc và Vọng. Ngày Đại-lễ cả Tín-đồ phải tựu về Thánh-Thất hầu lễ và nghe lời giảng giải Đạo-đức ; trừ ra, người vắng mặt, với một việc đáng kể th́ mới đặng châm chế mà thôi. Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất, mỗi ngày phải cúng bốn lần, gọi là cúng Tứ-thời (Tư, Ngọ, Mẹo, Dậu). Bổn-Đạo ở gần Thánh-Thất, nếu tiện th́ nên đến hầu lễ mỗi thời cúng nơi Thánh-thất sở tại.
*
Nhập-Môn
Nhập-môn cầu Đạo chẳng có tốn kém lễ-lộc chi cả, nhưng phẢi có hai người tiến dẫn. Người tiến dẫn có phận sự d́u dắt kẻ mới nhập môn trên đường Đạo. Chức-sắc cai-quản Thánh-Thất, phải tự ḿnh, hoặc phải người thay mặt, đến tận nhà người mới nhập môn, hành lễ thượng tượng và chỉ vẻ cách thờ phượng cúng lạy, cách áp-dụng Đạo-luật, đặng sửa ḿnh theo Đạo-Đức, nhứt nhứt cần giảng-giải cho minh bạch. Người nhập-môn rồi gọi là Môn-đệ của Đức CHÍ-TÔN và là anh em với tất cả mọi người. Mà đă là anh em th́ phải hết ḷng d́u-dắt, giúp đỡ lẫn nhau.
*
NGŨ - GIỚi - CẤM
Kẻ tu-hành phải trai-giới. Vậy trai-giới là ǵ ? Trai tức là ăn chay, Giới tức là giữ giới cấm, đại để có năm diều : 1 - Bất sát-sanh 2 - Bất du-đạo 3 - Bất tà-dâm 4 - Bất tửu-nhục 5 - Bất vọng-ngữ
*
TỨ-ĐI ĐIỀU-QUI
Ngũ-giới-cấm và Tứ-đại Điều-qui là khuôn thước của người học Đạo ; chúng ta nương theo đó mà sửa ḿnh. a)- Vâng lời dạy bảo của người trên, không hở nghe lời khuyên của kẻ dưới. Nếu có lầm lỗi phải thiệt ḷng cải quá lấy lễ ḥa người, lấy lễ đăi người. Không yễm tài người hay, không che lấp lỗi ḿnh. Giữ-ǵn lời nói, tư-tưởng và hành-vi luôn luôn ở trong khuôn viên Đạo-đức, nhứt là nơi vắng vẻ lại càng phải cẩn mật hơn nữa. b)- Không khoe tài giỏi của ḿnh, không kiêu ngạo kẻ khác, phải giữ dạ khiêm cung, dầu ở nơi nào cũng vậy. Thường quên ḿnh để làm nên cho người, nhứt là giúp người thành Đạo. c)- Xử-sự tiếp-vật, nên lấy hạnh khiêm-cung làm đầu. Tinh-thần của lễ là kính. Phàm kính người th́ luôn luôn hết dạ kính tin, dầu có mặt hay không cũng vậy. Đừng thấy giàu mà trọng, chẳng thấy khó mà khinh. Thường lấy lời nhỏ-nhẹ khuyên bạn làm lành. Phép nước luật Đạo, hết ḷng kính giữ. Đó là phương pháp giữ ḿnh theo Đạo vậy.
*
LUT XỬ-THẾ
Cùng theo học một Thầy, tức thị anh em bạn đồng-môn, mà hễ anh em th́ phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trên đường Đạo và đường Đời. T́nh đồng Đạo, nếu ngày trước có hờn giận nhau, ngày nay nên hỉ-xả. Quên lỗi cũ đặng cùng nhau tạo một nền hạnh-phúc chung. Phải tránh việc cải-cọ hiện tiền, lấy đức nhẫn-nhục đăi nhau. Trên dưới thương nhau trên đường Đạo và đường Đời. Ấy là hiến lễ trân trọng cho ĐI-TỪ-PHỤ vậy. Nhơn-đạo vốn có Tam-cang, Ngũ-thường, Tam-tùng, Tứ-đức là trọng. Kẻ học Đạo lấy đó làm nền tảng cho cuộc đời ḿnh. Gốc đă thành lập tự-nhiên ngọn nương theo mà sanh. Người Tín-đồ Đại-đạo không đặng có hầu thiếp,trừ khi đă bị chích lẻ giữa đường, cần phải chấp nối. Ho ặc giả, vợ chánh không con nối hậu, th́ đặng phép cưới thiếp, song phải có vợ chánh ưng thuận mới đặng. Vợ chồng chẳng đặng để bỏ, trừ ra, tội nặng như : ngoại t́nh, thất hiếu, vân vân... Con nít phải có cha đỡ đầu, pḥng khi rủi bị thân côi. Con nít lên bảy tuổi phải cho học Đạo, học chữ. Việc quan, hôn, tang, tế, anh em chung lo với nhau như anh em ruột một nhà. Tang lễ không nên xa-xí, không nên quàn Linh-cửu lâu ngày, không nên dùng đồ màu sắc, không nên yến-ẫm. Việc cúng tế nên dùng đồ chay. Nhạc lễ theo Tân-luật, tang-phục y như xưa. Quân-tử chi Đạo tạo-đoan hồ phu phụ, Đạo làm người khởi đầu tại việc lập vợ chồng ; gốc nếu rủi lầm lỗi th́ sau ắt khó sửa chữa. Vậy nên người Tín-đồ phải kết hôn với người đồng Đạo ; trừ ra, khi người ngoại Đạo ưng thuận nhập môn trước, rồi sau mới kết thành vợ chồng. Trước lễ thành hôn tám ngày, chủ hôn trai phải dán bố cáo tại Thánh-thất sở tại. Ấy là ngừa trắc trở về sau. Lễ sánh duyên phải cầu chứng nơi Thánh-thất sở tại. Việc sanh nhai, phải chọn một nghề nghiệp nào không có ư sát sanh hại vật, không bại tục tồi phong.
*
RĂN PHT
Có luật tự nhiên có răn phạt ; nhưng cách răn phạt của Tôn-giáo chẳng giống luật Đời, mà thật cốt-yếu là răn dạy. Đại-khái như : Kẻ nào phạm giới-luật, nếu có bạn khuyên can th́ phải vui ḷng nghe theo mà cải quá. Nếu kẻ phạm đă có một hai lầm bị khuyên can rồi, mà c̣n tái phạm nữa, th́ chúng bạn được đem việc ấy tŕnh bày với vị Chức-sắc cai quản Thánh-thất sở tại. Nếu vị Đầu-họ-Đạo đă dứt bẩn rồi mà kẻ ấy c̣n phạm tội nữa th́ việc lầm lỗi ấy, có thể đem đến Hội-Thánh xem xét. Kẻ phạm luật Đạo, có thể bị trục-xuất, nếu tội lỗi không thể tha thứ được.
*
LUT XUẤT-THẾ
Tịnh-thất là một giáo-đường thâm nghiêm. Tín-đồ vào đó đặng an-thần, dưỡng-trí, tu luyện đến công-viên quả-măn. Nơi đây, mỗi người đặng thọ Bí-quyết của Đức CHÍ-TÔN truyền dạy và được d́u-dắt cho đến siêu-thoát ra ngoài ṿng Càn-khôn. Hạng Tín-đồ nầy là bực Tối Thượng-Thừa, xong xuôi tất cả bổn-phận làm người ; nghĩa là chẳng c̣n dính dấp với gia-đ́nh, xă-hội nữa, mới đặng nhập Tịnh-thất. Hội-thánh sẽ xem xét kỹ-càng, trước khi thâu nhận. Tịnh-thất có kỷ-luật riêng, ngày giờ công-phu, hoặc ă nghỉ, mỗi mỗi đều nhứt định. Cấm người trong Tịnh-thất giao-tiếp với kẻ ngoài, hoặc thơ-tín, hay bàn chuyện cũng vậy. Trong Tịnh-thất có luật riêng, kẻ ở Tịnh-thất nhứt nhứt phải tuân theo kỷ-luật ấy. Đó gọi là luật Xuất-thế.
*
Tóm lại : Lễ-nghi và Đạo-luật tuy h́nh thức khác nhau, nhưng đồng đem lại một kết quả. Nghi lễ để trau giồi Tâm-lư, Đạo-luật để cầm vững hành-vi. Cả hai đều giúp cho người vững bước trên đường tu-tĩnh. Ấy vậy nên kẻ học phải biết quan sát, phải biết áp-dụng, hầu cho ḿnh có một tinh-thần Kỷ-luật.
CHƯƠNG THỨ NĂM ----
VƠ-TRỤ-QUAN ---
ĐO
Muốn bàn giải cái quan-niệm Vơ-Trụ, lẽ tất-nhiên, chúng ta phải nói đến chữ "Đạo" ; bởi v́ Trời-Đất vạn-vật đều do Đạo mà sanh sống và cũng do Đạo mà tấn-hóa đến chỗ Chí-thiện, Chí-mỹ, Chí-nhơn. Thế mà Đạo ra sao ? Đức CHÍ-TÔN có dạy rằng : "Khi chưa có Trời-Đất th́ khí Hư-vô sanh có một Thầy, và ngôi của "Thầy là Thái-cực ; Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi ; Lưỡng-nghi sanh "Tứ-Tượng ; Tứ-Tượng biến ra Bát-quái ; Bát-quái biến hóa vô cùng mà "lập thành Càn-khôn Thế-giái, rồi Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra "vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc, Côn-trùng, Thú-cầm và Người, gọi là "Chúng-sanh" (Xem h́nh Bát-quái nơi trương 49) Bài Thánh-ngôn trên đủ khái-niệm cái "Đạo" xây-dựng Vơ-Trụ và sanh hóa muôn loài ; nhưng, rất vắn tắt thành ra khó hiểu cho người ít đọc Đạo-thơ. Thừa dịp nầy, chúng tôi xin phân tách và thuyết-minh cho rơ thêm hơn như sau : a)- "Khí Hư-vô" mà Đức CHÍ-TÔN nói trên đây vốn vô-danh, vô-sắc. Đức LĂO-TỬ tạm gọi là Đạo, rồi ngài giảng rằng : "Hữu nhứt vật hổn thành, Tiên Thiên địa sanh, tịch hề liêu hề, độc lập nhi bất cải, châu hành nhi bất đải, khả dĩ vi Thiên-địa mẫu, Ngô bất tri kỳ danh, tự chi vi Đạo". Có một Đấng tự sanh, chớ chẳng phải giống chi sanh được, có trước Trời Đất, lặng yên một ḿnh ở trong cơi Thái-hư mà không nghiêng đổ, lưu-hành khắp nơi mà không mệt mỏi ; Đấng ấy khá gọi là nguồn sanh hóa Trời Đất ; Ta chẳng biết tên chi, song mượn chữ gọi là Đạo. Vậy Đức Lăo-Tử quan niệm Đạo là Đấng Tạo Hóa, rồi Ngài mô tả chữ Đạo đại lược như vầy : "Ta suy diễn th́ thấy Đạo lúc nào cũng có một, không biết đâu là đầu đuôi, manh mối ; thế mà nơi nào cũng có Đạo. Ta trông lên phía trên th́ không thấy phản-chiếu ánh-sáng, xem xuống phía dưới th́ không thấy ẩn-khuất bóng tối, lâng lâng trong sạch, hồn nhiên giản-dị mà chính Đạo là bản thể của Vơ-Trụ, Chúa-Tể của muôn loài. Cái Bản-thể của Vơ-Trụ nói đây, kinh Phật gọi là Chơn như và nói rằng :"Chơn-như giă Vơ-Trụ chi bổn thể ; nải bất sanh, bất diệt, bất tăng, bất giảm, vô thỉ, vô chung. Vơ-Trụ chi hiện tượng, hữu sanh-diệt, hữu tăng-giảm, hữu thỉ chung, vị chi vạn pháp. Vạn-pháp tức Chơn-như, Chơn-như tức Vạn-pháp". Nghĩa là Chơn-như là bổn-thể của Vơ-Trụ, không sanh, không diệt, không tăng , không giảm, không thỉ, không chung. C̣n Vơ-Trụ là hiện tượng của Chơn-như ; Vơ-Trụ có sanh tử, có tăng giảm, có thỉ chung, nên kêu là Vạn-pháp. Vậy Vạn-pháp là Chơn-như ; Chơn-như là Vạn-pháp. Muốn rơ thêm, chúng ta hăy xem lời của ông Chu-Liêm-Khê là một Danh-nho đời Tống bên Tàu nói rằng :"Vô-Cự nhi Thái-Cực" ; nghĩa là Vô-Cực là Thái-Cực. Tại sao ? Bởi v́ Vô-Cực là Tịnh-thể ; Thái-Cực là Động-thể. Cái động-thể vốn do nơi tịnh-thể mà ra, cho nên nói Vô-Cực với Thái-Cực là một. Ông lại nói rằng Vô-Cực, nguồn gốc của Vơ-Trụ ; nó là không không và ở ngoài những cái mà loài ư hội được. Nhưng, tuy nói là "Không" mà chẳng phẢi là Không hẳn, v́ Vô-Cực vốn tự tại, bất sanh, bất diệt. Cái tự tại ấy chưa phát động th́ gọi là Vô-Cực ; c̣n khi đă phát động rồi th́ gọi là Thái-Cực. Vậy Vô-Cực với Thái-Cực là một gốc ; nhưng Vô-Cực th́ yên lặng mà Thái-Cực th́ phát động và Hóa-sanh ra Thế-giái vạn-hữu. Tóm lại Tam-giáo đều quan niệm cái lẽ "Đạo" như nhau, nhưng cách lập ngôn và dùng danh từ để giảng-giải th́ bất đồng. Đại để như nói Vô-Cực hay khí Hư-vô vốn một thể với Thái-cực. Nhưng, Vô-Cực hay khí Hư-vô th́ siêu-việt quá người ta không thể khái-niệm được mà chỉ khảo-sát được Thái-Cực là cơ biến dịch hóa sanh Trời Đất vạn-vật mà thôi. Lẽ nầy chẳng khác nào Kinh Phật nói : Chơn-như là Vạn-pháp ; Vạn-pháp là Chơn-như. Nhờ tham khảo cơ biến hóa ấy mà người ta hiểu được Đạo là khí Hư-vô, Vô-cực hay Chơn-như. b)- Câu thứ hai trong bài Thánh-nhôn trên kia nói rằng :"Thầy phân "Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng-nghi sanh Tứ-Tượng, Tứ-tượng biến ra "Bát-quái, Bát-Quát biến hóa vô cùng mà lập thành Càn-Khôn Thế-giái ; "rồi Thầy phân tánh Thầy ra mà sanh ra vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc "Côn-trùng, Thú-cầm và Người gọi là Chúng-sanh". Chỗ nầy, Ông Chu-Liêm-Khê nói rằng : Thái-cực có hai thể : Động và Tịnh. Động th́ sanh Dương ; Tịnh th́ sanh Âm. Thái-cực chỉ có một Động một Tịnh mà phân ra Lưỡng-nghi, tức Thái-cực sanh Âm-Dương nhị khí. Âm-dương có tánh tương-khắc mà lại tương-ḥa. Bởi tương-khác cho nên Âm-Dương gặp nhau th́ xô-xát ; chính sự xô-xác ấy thành cơ biến hóa. Mà xô-xác cùng cực rồi lại điều-ḥa ; chính sự điều-ḥa ấy là cơ định vị Trời Đất. Thử hỏi Âm-Dương nhị khí xô-xát, điều-ḥa, cách nào mà định vị Trời Đất ? Th́ sách chép rằng : Trong lúc Âm-Dương hỗn-độn, khí nhẹ bay lên thành Trời ; khí nặng ch́m xuống thành Đất. Khi Trời Đất định vị cao thấp rồi trong khoảng không gian ở giữa Trời Đất, khí Âm khí Dương lại xô-xát điều ḥa nữa mà sanh hóa muôn loài. Vạn-vật đến lượt chúng nó, khi đă trưởng thành th́ giống đực, giống cái giao-cấu mà sản xuất thêm măi ; chỗ nầy, Kinh Dịch nói :"Thiên-Địa nhơn huân vạn-vật hóa thuần ; Nam Nữ cầu tinh vạn-vật hóa sanh". Ông Chu-Chu-Liêm giải một cách khác hơn nữa rằng : Dương độn th́ biến hóa ra, Âm tịnh th́ tập hợp lại ; bởi sự biến-hóa ra và sự tập-hợp lại mà Âm-Dương sanh ra Ngũ-hành là : Thủy, Hỏa, Kim, Mộc và Thổ. Cái chơn của Vô-cực là Lư, cái Tánh của Âm-dương Ngũ-hành là khí. Lư Khí diệu hợp mà quẻ Kiền sanh con trai, quẻ Khôn sanh con gái. Rồi Âm-Dương giao cảm (Khí ḥa) mà hóa sanh vạn-vật ; Nam Nữ giao cảm (h́nh ḥa) mà sanh sản vô cùng tậm. Cơ tạo hóa vạn vật giảng giải như thế cũng khá rơ rồi. Bây giờ thử so sánh Đạo-học với Khoa-học. Khoa-học ngày nay cũng nh́n nhận cái thuyết Âm-Dương do Đạo-học phát minh là đúng sự thật ; song, Khoa-học dùng danh từ khác. Đại-để như nói rằng : Trong Vơ-Trụ bao-la, có những điện-tử vận hành măi măi, không lúc nào ngừng, mà sự vận-hành của điện-tử luôn luôn điều-khiển bởi một "Sức mạnh phi thường" (tức ám chỉ về Thượng-Đế). Trong điện-tử, Khoa-học lại nhận thấy có hai thứ khác nhau là : Điện-tử Âm và điện-tử Dương. Hai thứ điện-tử nầy dung hiệp làm một Nguyên-tử (1) (Điện-tử-hệ). Nhiều Nguyên-tử dung hiệp thành một Tế-bào laé nguyên-liệu sanh thành vạn-vật. So sánh hai thuyết nầy th́ chúng ta thấy Khoa-học nói : Điện-Tử Âm và Điện-tử Dương hiệp thành nguyên-tử, c̣n Đạo-học lại nói : Khí Âm và khí Dương diệu hiệp thành một "Khí-cơ". Hai danh-từ tuy khác mà tựu-trung chỉ là một vật thôi. Thật khoa-học tiến một bước rất dài. Ước ǵ một ngày kia Khoa-học và Đạo-học hiệp nhau thành một Học-thuật vừa tinh-thần, vừa vật-chất, để đưa nhơn-loại tiến lên đường tiến hóa.
-----------
(1) Nguyên-tử.- Chất hơi, chất đặc, chất lỏng, vân vân... đều là Vi-tế-bào (cellule) cấu thành. Trong mỗi Vi-tế-bào co& nhiều Nguyên-tử (Atomes). Người ta phân tách nguyên-tử ra th́ có Điện-tử Âm và Điện-tử Dương. Một hột Điện-tử Dương có nhiều hột Điện-tử Âm chạy chung quanh, cũng như nhiều quả địa-cầu xoay chung quanh mặt Nhựt vậy.
c)- Đó là bàn chung Vơ-Trụ Vạn-vật. Bây giờ, chúng ta xét trở lại người ta đối với Đạo là thế nào ? Mặc dầu chúng ta nhờ Cha Mẹ (h́nh ḥa) mà sanh ra Nhục-thể ; sohn phần Hồn (Lư) và Khí cũng vẫn c̣n liên đới với Đạo, rất chặt-chẽ.Đó là chỗ mà Đơn-kinh nói rằng : Người là Tiểu-Thiên-Địa, tức người có đủ Âm-Dương và Ngũ-Hành, y như Vơ-Trụ là Đại-Thiên-Địa vậy. Thế đủ hiểu người ta nhờ Cha Mẹ mà có Nhục-thân, nhờ Vơ-Trụ mà có phần Khí và nhờ CHÍ-TÔN ban cho một điểm Tánh-linh để làm Hồn ; gọi tóm tắt là Tinh-Khí-Thần (Tam-bửu). Th́ đây, sự phản bổn hườn nguyên của người đời cũng chỉ có theo Đạo mà trở về với Cội-Sanh ḿnh là Trời mà thôi ; chớ chẳng có con đường nào khác. Hoặc nói trắng ra là một Chơn-linh đă đến cơi Trần rồi ; nay muốn trở về với Thái-cực th́ phải nương theo sự vận-hành của cái máy Âm-Dương mà trở về, chớ không có phép nào khác nữa. Đạo thơ nói đó là phép "Luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hườn Hư" vậy. Đại để như thế ; nhưng muốn công-phu có kết-quả mỹ-măn th́ phẢi dày công khó nhọc lắm. Trưoéc nhứt phải có đức tin chơn chánh, để làm đuốc dẫn đường và Trờ Phật d́u dắt, rồi c̣n phải tạo dựng Phước-đức vaé Trí-huệ viên-măn th́ mới mong siêu-thoát được.
Quan niệm về Thiên-Triều
Chúng ta trông thấy Vơ-Trụ bao-la ; trên có Trời, dưới có Đất, ở giữa có Sơn-hà, Thảo-mộc, Thú-cầm và Người ta. Nếu suy-diễn ra nữa th́ trong cái Thế-giới Vạn-hữu nầy, c̣n có một Thế-giới Tinh-thần nữa. Phần Thiêng-Liêng ấy do đức CHÍ-TÔN vi chủ và Thần, Thánh, Tiên, Phật, hộ tŕ. Cái cơ-quan nầy chúng tôi tạm gọi là Thiên-Triều, tức Triều-Thượng-Đế. Bà Bát-Nương Diêu-Tŕ-Cung giáng cơ dạy về Thiên-Triều như vầy : Trong Vơ-Trụ bao-la, Không-gian ở trên là Thượng-từng Bí-pháp của mọi quyền năng Thiêng-liêng, Đấng CHÍ-TÔN vi chủ. Thần, Thánh, Tiên, Phật hộ tŕ. Thời gian ở dưới có đủ Khí-chất, để tạo dựng Vơ-trụ hữu-vi và vật-chất hữu-h́nh. Phép nhiệm mầu vô biên ấy do quyền năng tuyệt-đối của Đức CHÍ-TÔN vận chuyển, trụ lập Thiên-thơ, định thàhn Thiên-Điều, khiến cho Không-gian phối hợp với Thời-gian mà xây dựng Thế-giới vạn-hữu. Đó gọi là Thiên-Triều thống-trị cơ sanh hóa và đoạt vị của Bát-hồn. Chúng tôi thể theo Thánh-ngôn trên đây mà kể sơ lược như sau : * a)- Cửu-Thiên. 1- Hư-Vô Cao-Thiên là từng Trời phán ngự Càn-Khôn, do Đức CHÍ-TÔN vi chủ. 2- Hạo-Nhiên Huyền-Thiên là nơi định pháp, do Đức Thái-Thượng Đạo-Tổ vi chủ. 3- Phổ-Hóa Huyền-Thiên hay Phi-Tưởng Diệu-Thiên là nơi hóa độ quần linh, do Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật vi chủ. 4- Tạo-Định Cao-Thiên hay Thượng-Thiên Hổn-Ngươn là nơi phân định Càn-Khôn, do Đức Hồng-Quân Lăo-Tổ vi chủ. 5- Tạo-Hóa Huyền-Thiên là nơi sanh hóa Bát-Hồn, do Đức Phật-Mẫu vi chủ. 6- Kim-Thiên là nơi phát sanh bổn chất của Chơn-thần, dưới sự điều-khiển của Tạo-Hóa Huyền-Thiên. 7- Huỳnh-Thiên. 8- Xích-Thiên. 9- Thanh-Thiên là ba từng Trời lập định thứ bậc Tấn-Hóa của các Nguyên-Nhân, do Hiệp-Thiên-Cung vô-vi hành-hóa. b)- Thiên-Cung. Ngọc-Hư-Cung là ngôi của Đấng Chủ-tể Càn-Khôn Vơ-trụ, có sẵn Thiên-Điều là luật thưởng phạt Bát-Hồn. Ngôi hành pháp là Linh-Tiêu-Điện có đủ oai-linh của Thái-cực Thánh-Hoàng ban bố, để giữ máy hành-tàng hư thiệt. Cực-Lạc Thế-Giái là ngôi chấp-chưởng luật Nhơn-quả, Luân-hồi, định-vị cho Bát-Hồn, tức định phẩm trật cho cả Vạn-linh trên đường lập vị Thiêng-Liêng. Luật "Tấn-Hóa" của Bát-Hồn do quyền năng vô đối của Đức CHÍ-TÔN phán định. Chơn-pháp ấy vận hành từ vô-vi ra hữu tướng ; từ hữu-tướng trở lại vô-vi, mỗi mỗi đều căn cứ vào : Hư-không là chuẩn-đích ; Vận-chuyển là hành-tàng ; Điều-ḥa là phương-pháp ; Chơn-chánh là phương-định. * c)- Thiên-Thơ và Thiên-Điều. Thiên-thơ là hiến-pháp bất di, bất dịch, của cơ Tạo-đoan. Nguyên khi định thành Càn-khôn rồi, Đức CHÍ-TÔN vi chủ ; chư Thần, Thánh, Tiên, Phật ngự-trị th́ cả quyền năng hiệp lập Thiên-thơ, là nền tảng cơ Tạo-thế. Thiên-điều là luật Trời, do Thiên-thơ mà lập thành, để giữ vững giếng mối vận chuyển :"Không ra Sắc, Sắc trở lại Không". Luật "Công-b́nh và Bác-ái" tại Thế-gian vốn là biến thể của Thiên-điều, nhứt là luật Luân-Hồi và Nhơn-Quả mà Tam-giáo đă phổ biến từ ngàn xưa. * d)- Luật Luân-hồi. Luân-hồi nghĩa là xoay vần măi, cũng như bánh xe lăn qua rồi lăn qua nữa, không lúc nào ngừng. Về Đạo-pháp, chữ
thiếu trang 46,47
Muốn lập đức-tin chơn-chánh, chúng ta chớ vội tin những lời của người nói, mặc dầu người ấy là một vị truyền-giáo, mặc dầu lời ấy đă chép trong kinh sách của ai. Phải dùng lư-trí mà suy-nghĩ, với một cách vô-tư, cho biết rằng : Việc ấy có đem lại hạnh-phúc cho cá-nhơn, cho gia-đ́nh, cho xă-hội và tất cả loài Người chăng ? Nếu quả như vậy, rồi chúng ta sẽ tin. Một khi đă có đức tin th́ cứ giữ một ḷng tinh-tấn làm theo cho đến kết-quả. Tâm thần chúng ta luôn luôn phải được lọc-lược thanh-khiết, cầu cho ḿnh có đủ sáng suốt, phân-biệt, với một cách vô-tư, những lẽ chánh tà, phải quấy ; phải tránh nhứt là sự làm nô-lệ cho kiến-văn, thành-kiến, do t́nh cảm gây ra. Đức-tin phải có lư-trí xét đoán. Cái biết phải nhờ cái làm hoàn thành. Cả tri hành hiệp nhứt mới có thể đưa người ta đến cảnh Quang-minh chánh-đại. Đức tin chơn-chánh rất hữu-dụng cho người đời, như đối với gia-đ́nh, nếu người ta tin có Trời soi xét việc làm của người, để thưởng phạt th́ ắt có người con làm tṛn đạo-hiếu, người anh em laém tṛn nghĩa đệ huynh, c̣n đối với làng nước nếu người ta có đức tin chơn-chánh th́, ngoài sự kiêng phép nước, người ta c̣n sợ luật Trời nữa. Thiết tưởng mỗi người ăn ở như thế th́ ắt Gia-đ́nh, Xă-hội sẽ được thái-b́nh. C̣n đối với hạng người Xuất-thế th́ đức-tin chơn-chánh là ngọn đuốc rọi đường tu-tỉnh và đưa ḿnh đến Chơn-Thiện-Mỹ.
TIÊN THIÊN BÁT-QUÁI
Càn Đoài Tốn Ly Khảm Chấn Cấn Khôn
HU THIÊN BÁT-QUÁI
Ly Tốn Khôn Chấn ĐOài Cấn Càn Khảm
Sự tích Bát-Quái (Xem trương 39)
Trong trương 39 có bài Thánh-giáo nói về Bát-Quái, chúng tôi theo kinh Dịch kể sơ lược sự tích của Bát-Quái như sau, đỂ cho độc-giả biết qua. Vua Phục-Hi sanh về đời tối cổ bên Tàu, là thời kỳ Thần-linh-học phát triển đến cực-độ ở Á-Đông. Ngài là một ông vua Minh-quân : tài cao, đức trọng,tinh-thần minh-mẫn, hàm dưỡng được Trí-Huệ của Thượng-Đế ban cho ; thành thử, Ngài xem suốt cơi Vô-h́nh. Khi dạo chơi nơi bờ sông Hà (ngày nay gọi là sông "Huỳnh-Hà", v́ sông ấy có cát vàng). Ngài trông thấy một con vật ḿnh ngựa, đầu Rồng, danh gọi là Long-Mă, trên lưng có 55 nút chấm. Vua Phục-Hi do đó mà lập ra Bát-Quái (Tám quẻ) gọi là Tiên-Thiên Bát-Quái, hay Phục-Hi Bát-Quái.
Long-Mă Theo sách Nho th́ Long-Mă có thân h́nh cao 8 thước, 5 tấc (thước Tàu), xương cổ dài, chưn Ngựa, đầu Rồng và trên ḿnh có vảy như vảy Rồng. Rồng là một vật trong số Tứ-Linh ; có đủ nơi ḿnh những cái tinh túy của Vơ-trụ. Ngựa là vật chở người, chở đồ vật, đi mau lẹ. Tóm lại, Long-Mă tượng trưng "Thời gian trôi qua mau lẹvà mang theo tất cA" sự vật của Vơ-trụ", tức là chỉ vào "Thời gian lúc nÀo cũng luân chuyển ; mang theo tất cả sự vật với một cách Thiêng-Liêng". Long-Mă gốm cả Thể đức của hai vật Rồng-Ngựa (Âm-Dương) là vật linh mang chở cả cái Thần-bí, tinh-túy của Trời đất để chan rưới khắp cơi đời sanh tồn. Kinh Dịch nói : Long-Mă là vật linh kết hợp bởi 8 cái tinh-túy ở trong Thái-dương-hệ, hiển hiện dưới con mắt Thần của Vua Phục-Hi là một Thánh-Vương coi được các Vật trong cơi Vô-h́nh, thấy rơ vật linh của Trời Đất, mang chở những cái tinh-anh của Thái-dương-hệ. Lạc-thơ - Laé sách do sông Lạc mà lập thành. Nguyên vua Vơ, Thỉ-tổ của nhà Hạ, khi nước lụt ra trấn nước ở sông Lạc. Khi nước cạn, Vua Vơ thấy một con Linh-Qui đội cầu, trên lưng có số 9, Vua Vơ theo đó mà sắp thứ tự thành ra Lạc-thơ hay Hậu-thiên Bát-Quái.
CHƯƠNG THỨ SÁU NHƠN SANH QUAN
Tâm : Ngư(c)i ta có một cái "Tâm". Cái cớ sở dĩ Nhơn-sanh tối linh ư vạn-vật cũng chỉ v́ cái "Tâm" đó. Nếu có ngư(c)i hỏi Tâm do đâu mà có và nó ra sao, th́ chúng ta trả l(c)i rằng :"Tâm" ngư(c)i ta là điểm tánh linh của Thư(r)ng-Đế ban cho, và Tâm ngư(c)i cùng Tâm của Vơ-trụ đồng nhứt lư. Muốn xác nhận điều nầy, xin xem kế đây : a)- Bài Thánh-Ngôn của Đức CHÍ-TÔN mà chúng ta đă khép trong trang trước có một đoạn như vầy :"Khi tạo dựng Càn-Khôn Thế-giái rồi, Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là :"Vật chất, Thảo-mộc, Côn-Trùng, Thú-cầm gọi là Chúng-sanh". b)- ông Vương-Dương-Minh nói : "Tự kỳ h́nh giả vị chi Thiên ; chủ tể giả vị chi Đế, lưu hành giả vị chi mạng ; phú quí nhơn giả vị chi tánh ; chủ ư Thân giả vị chi Tâm". Nghĩa là nhắm vào h́nh tư(r)ng th́ gọi là Tr(c)i, nhắm vào Chúa-Tể Vơ-Trụ th́ gọi là Đế, tức Thư(r)ng-Đế ; nhắm vào sự lưu-hành trong Vơ-trụ th́ gọi là mạng, phú cho ngư(c)i th́ gọi là Tánh, làm chủ của Thân phàm th́ gọi là Tâm. c)- Sách xưa có câu nói rằng :"Nơi Tr(c)i th́ gọi là Mạng, nói ngư(c)i th́ gọi là Tánh, nơi sự th́ gọi là Lư, làm chủ Thân-phàm th́ gọi là Tâm. Tuy Mạng, Tánh, Lư, Tâm khác danh từ song cả thảy là một mà thôi (Tại Thiên vi Mạng, tại Nhơn vi Tánh, tại Sự vi Lư, chủ ư Thân vi Tâm, kỳ thật nhứt giă). Thế đủ rơ Tr(c)i với Ngư(c)i tương-liên mật-thiết là dư(c)ng nào ! Và cũng v́ cái lẽ tương-liên ấy, cho nên ngư(c)i phải theo Đạo mà sanh sống và tấn-hóa. Trái lại, ngư(c)i nào càng xa Đạo bao nhiêu, th́ càng phải chịu thống khổ bấy nhiêu, cho nên Đạo-đức-Kinh nói : "Thiên đắc nhứt dĩ thanh ; Địa đắc nhứt dĩ ninh ; Thần đắc dĩ "linh ; vạn-vật đắc nhứt dĩ sinh. Kỳ trí chi nhứt giă, Thiên vô dĩ "vi thanh ; tương khủng liệt ; Địa vô dĩ vi ninh, tương khủng phiệt ; "Thần vô dĩ vi linh, tương khủng kiệt, vạn vật vô dĩ vi sinh, tương khủng diệt". Nghĩa là Tr(c)i đặng Một (Đạo) th́ trong sáng ; Đất đặng Một th́ bền-v"ng ; Thần đặng Một th́ linh-thiêng ; muôn loài đặng Một th́ sanh sống và tấn-hóa. Đến như số Một nói đây, tức Đạo, nếu Tr(c)i chẳng đặng nó, để làm cơ-sở trong sáng th́ e Tr(c)i phải tối ; Đất chẳng đặng nó, để làm cơ-sở bền-v"ng th́ e Đất phải sụp đổ ; Thần chẳng đặng nó, để làm cơ-sở linh-thiêng th́ e Thần phải kiệt ; muôn loài chẳng đặng nó, để làm cơ-sở sinh-tồn th́ e muôn loài phải tiêu diệt. Theo lẽ nầy mà suy ra th́ thấy rằng Chúng-sanh nếu không lấy Đạo làm cơ-sở cho đ(c)i sống th́ phải chịu thống-khổ và đi làm đến chỗ diệt vong. Bây gi(c) th́ thử hỏi tại sao mà Chúng-sanh không theo đư(r)c Đạo ? Vả lại, Đạo vốn vô-vi ; Tâm ngư(c)i ta lúc ban đầu cũng vô-vi như Đạo ; cho nên nói : Tâm tức Đạo, Đạo tức Tâm. Nhưng khi làm chủ Phàm-thân, Tâm bị Phàm-thân kích-thích mà Tâm biến-sanh một trạng-thái thứ nh́ n"a, mạng danh là Thức-tâm hay Thức-tánh. Chính cái Thức nầy là một động-lực làm cho Tâm mất cái lư Vô-vi, thành ra con ngư(c)i phải xa Đạo. Giảng-giải sự biến thiên của Tâm, Ông Vương-Dương-Minh nói rằng :"Thân chi Chủ-tể tiện thị Tâm ; Tâm chi sở phát tiện thị Ư ; Ư chi bổn-thể tiện thị Trí ; Ư chi sở tại tiện thị Vật". Làm chủ của Thân thiệt gọi là Tâm ; phát động của Tâm thiệt gọi là Ư ; bổn thể của Ư thiệt gọi là Trí ; Ư để chỗ nào th́ chỗ ấy là Vật (việc). Ví-dụ : như hiếu với Cha Mẹ. Vậy Ư ngưng chỗ ch" hiếu ; cho nên hiếu là một việc. Theo đó, chúng ta có thể tóm tắt như vầy : Tâm Tánh Ư Trí Vật hay việc Tâm là cái Thông-danh, hổn-hàm cả Tánh bổn-nhiên và Thức-tánh, tức là Ư, Trí, Vật như đă nói trên. Phật-giáo cũng mô-tả Thức-tánh rất rơ ràng lắm. Chúng tôi xin chép bài "Bát-thức" kế đây để mở rộng tầm suy nghĩ của ḿnh.
Bát-thức Nói về Thức-tánh biến-thiên muôn vạn t́nh-thức khác ; nhưng Phật gọi tóm tắt là Bát-thức kể như sau : Giai đoạn thứ nhứt.- Nói về sáu thức bên ngoài. Khi Phàm-thân khôn lớn th́ khuynh hướng về vật-chất cầu sự nuôi sống và giúp vui ; v́ nó thuộc vật-chất phải nh(c)-vă nơi vật-chất. Nhơn đó mà Lục-căn của Phàm-thân tiếp xúc Lục-trần mà sanh ra Lục-thức. Xem bản thống-kê Lục-thức kể đây :
Bản thống-kê Lục-thức
Lục-Căn Lục-Trần Lục-thức
Nhăn Sắc Nhăn-thức Nhĩ Thinh Nhĩ-thức Tỉ Hương Tỉ-thức Thiệt Vị Thiệt-thức Thân Xúc Thân-thức Ư Pháp (tức sự Ư-thức vật ở đ(c)i)
Năm thức trên do Ngũ-quan tiếp xúc với ngoại-vật mà sanh. Tuy mỗi thức có cái biết riêng của nó. Mắt biết sắc ; tai biết tiếng ; Mũi biết mùi ; Lư"i biết vị ; Thân biết cảm xúc ; nhưng năm thức ấy biết mà không có tư-lương, suy-nghĩ ; đến chừng chúng nó truyền cái biết vào Ư-thức th́ cái Thức thứ sáu nầy mới phân-biệt tốt xấu, hơn kém. Ḷng ham muốn vật-chất do đó mà sanh. Từ đó về sau t́nh-dục đua nhau mà làm loạn Bổn-tâm. Ví dụ : Anh X muốn có một chiếc xe du lịch. Ḷng ham muốn giục thúc anh ta phải lo liệu, làm lụng, thế nào cho có tiền để mua xe. Nếu mua đư(r)c chiếc xe th́ vui mừng, thỏa thích, rồi lại đâm ra s(r) mất, s(r) hư, mà phải lo ǵn gi" chăm nom. Trái lại, nếu thất vọng th́ anh X buồn rầu phiền năo, rồi âm mưu, tính kế, làm ra tiền, có khi anh ta dám làm việc ích-kỹ hại nhơn n"a. Nh"ng t́nh-dục ở trong Thức thứ sáu (Ư-thức) cứ theo Nhơn-duyên bên ngoài mà hoạt động. Ngư(c)i ta, sở dĩ, khổ năo lắm, chỉ v́ T́nh-dục ấy.
Giai đoạn thứ hai.- Thức thứ bảy và thứ tám. T́nh dục ở nơi Ư-thức, hoạt động măi hoạt động măi đến khi hết cơ duyên rồi nó lại ngấm theo Thức thứ bảy, mạng danh là Truyền-Tống-Thức (Manas) mà vào Thức thứ tám, mạng danh là Hàm-Tàng-Thức (Alaya). T́nh dục ẩn núp trong Hàm-Tàng-Thức để ch(c) cơ duyên thuận tiện khác mà hoạt động lại n"a : T́nh dục ấy, về sau, thành ra tánh tự nhiên của ngư(c)i. Lúc vô sự, nó yên lặng như không, nhưng khi gặp cơ hội th́ nó dấy động mau lẹ, cũng như Lương-tri, hay Lương-năng. Ngư(c)i ta, nếu không nghĩ lại th́ nhận lầm nó là Bản ngă của ḿnh, rồi lấy đó mà làm then chốt cho đ(c)i sống. Chúng ta thấy có ngư(c)i đương vui mà bỗng nhiên buồn, đương giận mà bỗng nhiên lại thương, vân vân... Ấy là tại ngư(c)i ta sống theo Bản ngă giả hiệp đó vậy. Nói tóm lại Bát-thức là : Nhăn-thức Nhĩ-thức Tĩ-thức Thiệt-thức Thân-thức Ư-thức Manas thức (Truyền-Thống-Thức) Alaya-thức (Hàm-Tàng-Thức). Sáu thức trên đă giải đư(r)c rồi, bây gi(c) xin giải rơ hai Thức sau. Thức thứ bảy, theo danh từ Truyền-Thống-Thức mà định-nghĩa, th́ nó là cái Thức truyền các cái Thức bên ngoài vào trong Hàm-Tàng-Thức. Trái lại, nó cũng truyền tống nh"ng ư niệm của Hàm-Tàng-Thức ra ngoài Thức thứ sáu kia n"a. Thức thứ tám (Hàm-Tàng-Thức) nghĩa là nó ngậm chứa cả các Thức. Nó cũng có tên khác là "Chủng-Tử-Tạng", nghĩa là cái Tạng chứa đủ cả các hột giống. Chúng sanh, sở dĩ, làm Chúng sanh hay làm Phật, cũng do nó mà ra, cho nên gọi nó là hột giống Luân-hồi. Nghĩa là cái Bản-ngă giả-hiệp nầy, khi sanh tiền, th́ lưu ẩn trong Hàm-Tàng-Thức mà hoạt động theo vật-chất, để cầu l(r)i cho Nhục-thân ; măi đến khi tử-hậu th́ nó trở về "Bạch-Tịnh-Tạng" để di chuyển sanh kiếp khác n"a. Thế nên trong lúc Nhục-thân nầy đương tiêu tan dưới mồ th́ nó lo sửa soạn kết tạo Thể-thân khác cho kiếp vị-lai. Và cứ thế mà sanh-tử tử-sanh măi, không bao gi(c) ra đư(r)c, nếu ngư(c)i ta không tự giác ngộ. Ngư(c)i trí-giả đă rơ cái lư do thống-khổ, rồi ngư(c)i ta t́m phương giải khổ. Phương pháp ấy th́ nhiều, mỗi ngư(c)i quan niệm một lối. Th́ đây, cái lối của chúng ta, là "Minh-tâm Kiến-tánh", có sáng suốt đư(r)c Tâm của ḿnh để phân biệt đâu là Vọng, đâu là Chơn ; rồi sau mới đi lần đến sự thông sáng hoàn toàn là cái năng-lực đưa ngư(c)i siêu thoát ra ngoài ṿng sanh-tử.
CHƯƠNG THỨ BẢY ---
SỰ GIÁO-HÓA CỦA ĐI-ĐO
Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy rằng : "Ta v́ ḷng Đại-từ, Đại-bi, lấy đức háo-sanh dựng nên mối Đại-Đạo "Tam-Kỳ Phổ-Độ, tôn chỉ là : vớt kẻ h"u phần vào nơi địa vị cao thư(r)ng "để tránh khỏi số mạng Luân-hồi, và nâng đở kẻ có tánh-đức, bước vÀo "cơi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở cơi Trần-thế nầy". Thể theo Thánh-ngôn trên đây, Tân-luật Đại-đạo ấn định Tín-đồ của Đại-Đạo chia ra hai bậc : Thư(r)ng-thừa Hạ-thừa Thư(r)ng-thừa là ngư(c)i xuất Thế-gian, nghĩa là ngư(c)i đă phế Đ(c)i, theo Đạo, họ chẳng c̣n bận rộn về thế sự, mà chỉ lo tự-giác để rồi đem cái sở-đắc của ḿnh mà giúp cho ngư(c)i khác cùng đư(r)c khai sAng như ḿnh, tức Tự-giác giác tha. Tân-luật lại định rằng Chức-sắc của Hội-thánh từ Giáo-h"u dẫn lên, phải chọn trong hàng Thư(r)ng-thừa. Hạ-thừa là ngư(c)i c̣n ở Thế, vừa làm Nhơn-sự, vừa học Thiên-đạo. Tân-luật qui định cho lớp nầy phải làm tṛn bổn phận ngư(c)i, như bổn phận đối với xă-hội, gia-đ́nh, bổn-thân, Hội-thánh, ngư(c)i đồng-đạo vân vân... Phương pháp học hành của hai bậc nầy sẽ giảng rộng nơi chương Tám và chương Chín sau đây ; bây gi(c) xin bàn trước cách học-đạo và hành-đạo. Hai ch" "Học-Hành" chúng ta phải phân tách cho rành mạch châu đáo, hầu tránh sự nông nỗi của ḿnh, bởi v́ học là một việc, hành là một việc khác n"a. Hai phép "Học-Hành" hiệp lại th́ nó mới có thể đem lại cho ngư(c)i học cái kết quả mỹ-măn. Ấy vậy nên chúng ta chia học-hành ra làm hai giai-đoạn để giải thích cho rơ : Lư-thuyết Thực-hành *
Lư-thuyết
Phần Lư-thuyết, ai cũng biết rằng : khi mới khai Đạo, Đức CHÍ-TÔN giáng cơ lập Pháp-luật, Qui-điều, Lễ-nghi, Phư(r)ng-th(c), Tế-tự và dạy chúng ta học : từ Nhơn-đạo đến Thiên-lư. Và trước khi ngưng cơ bút, Đức CHÍ-TÔN c̣n dặn rằng :"Kinh-điển của Tam-giáo vẫn c̣n ẩn-tàng một phần Chơn-truyền yếu-lư, mà chúng ta cần phải tham-khảo tinh tư(c)ng, để làm sáng thêm Giáo-lư của ḿnh ; bởi v́ nền tảng của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ qui nguyên Tam-giáo. Xem đó th́ biết Giáo-lư của Đại-Đạo cao thâm, hoằng-viễn là ngần nào ; nhưng, chúng ta nên biết rằng học lư thuyết chưa đem lại kết quả nào đáng kể cho kẻ tu hành. Tỉ như, mỗi ngày, chúng ta đều tụng kinh "Huỳnh-Đ́nh", tụng không vấp một ch", tụng đến thuộc ḷng mà không thực hành th́ sự thuộc ḷng ấy chưa đem lại cho chúng ta đức hạnh chói rạng. Ấy vậy nên hễ muốn thành Đạo th́ chúng ta phải thực hành giáo-lư n"a. Tức là chúng ta phải học và phải làm thế nào cho giáo-lư nhập tâm và biến thành đức-tánh, để rồi áp dụng vào đ(c)i sống thực tế của ḿnh. Đó là phương tu tâm luyện tánh vậy. Về phương diện thực hành Giáo-lư, Đức CHÍ-TÔN có lập tại Thế-gian một trư(c)ng Công-quả ; cả Môn-đệ của Ngư(c)i phải theo đó mà tập luyện. Vậy Công-quả là ǵ ? Ngư(c)i Nông-phu cày cấy là làm công, tới mùa anh ta gặt lúa, là hái quả. Hễ cày cấy nhiều th́ lúa thóc nhiều, cày cấy ít th́ lúa thóc ít. Đó gọi là công-quả của ngư(c)i Nông-phu. Kẻ tu-hành cũng vậy. Nghĩa là kẻ tu-hành cũng phải làm công rồi sau mới hưởng quả. Nay muốn cho hiểu rơ thế nào là công-quả của kẻ tu-hành, chúng tôi tạm chia công-quả ra hai mặt là : Công-quả nội và Công-quả ngoại. Công-Quả nội.- Cũng gọi là công đức ; phương-pháp thực hành Công-đức là Học-giả phải gia công học hỏi cho thấu triệt Chơn-lư, cố gắng thực-hành thế nào cho chơn-lư biến thành đức hạnh, để rồi áp dụng vào đ(c)i sống thực tế của ḿnh, như đă nói trên. Tại sao kẻ học phải thực hành công-đức ? Vả chăng, tâm tánh chúng ta từ khi nhập Thể-cuộc đến bây gi(c), đă trước nhiễm nhiều vọng-chấp : nào là chánh-kiến, nào là tật xấu, nào là nết hư ; nhứt là thói ích-kỷ là một trở ngại lớn trong công cuộc cảm-ứng ở gi"a Tr(c)i và Ngư(c)i. Như vậy, nếu chúng ta chẳng dụng công tinh-luyện, đả phá thật sạch cái màn vô-minh ấy, th́ làm thế nào mà đi đến cảnh Toàn-giác. Đó là nói về thực-hành công-đức. C̣n như hỏi phải làm thế nào cho ḿnh trở nên ngư(c)i có đức ? Th́ chúng ta phải học cho hiểu đạo-lư ; hỏi cho rơ điều ng(c) vực, suy nghĩ cho thông tỏ cái lư đă học ; biện-bạch cho tinh-tư(c)ng và cố gắng làm cho tật xấu biến thành tánh tốt. Nói tóm lại là học, vấn, tư, biện và hành. Làm năm phương pháp nầy, để lập đức của ḿnh. Nói rút lại : về công-phu lập đức kẻ học phải làm cho thành, phải nói cho Thánh. Công-thành, Ngôn-thánh th́ đức mới rạng. Trái lại, nếu công chẳng thành th́ l(c)i nói không đư(r)c bảo đảm ; mà l(c)i nói không đư(r)c bảo đảm th́ Đức chẳng có chỗ nương, để chói rạng. Làm đư(r)c điều ấy tức là lập Công, lập Ngôn và lập Đức vậy. Công-Quả Ngoại.- Là phụng-sự cho Chúng-sanh. Chúng ta nh(c) tu công-đức mà tâm-tánh trở nên thuần-nhiên Thiên-lư ; lúc bấy gi(c), ḷng Bác-ái của chúng ta đư(r)c mở rộng. Chúng ta biết thương ngư(c)i, biết mến vật. Rồi chúng ta nương theo cái ḷng vị-tha ấy, mà giúp ngư(c)i, giúp vật, đư(r)c an vui theo lẽ Đạo ; nhứt là độ dẫn ngư(c)i đồng chủng đư(r)c mau tiến bước trên đư(c)ng tấn-hóa thiên-nhiên là một việc lành lớn, mà chúng ta nên chú ư cho lắm. Tại sao chúng ta phải phụng sự cho Chúng-sanh ? Vả lại, cả Chúng-sanh đều thọ sanh nơi một nguồn, học chung một Thầy và cùng nhau đồng đi trên một đư(c)ng về Cội-sanh ḿnh là Tạo-hóa, thành thử trên đư(c)ng sanh-tồn, học-vấn cả Chúng-sanh đều có thiếu n(r) lẫn nhau. Ngư(c)i ta cũng vậy, nghĩa là, ngư(c)i ta cũng phải chịu sự vay trả, trả vay, như các Chơn-hồn khác. Đại để như : từ buổi đă đư(r)c kết tạo trong Thai-bào, mỗi Chơn-linh đă phải chịu n(r) tiền-khiên rồi, tức là n(r) kiếp trước, đến lúc chào đ(c)i và trưởng thành, th́ lại nặng n(r) Xă-hội, Nhơn-quần, như : ơn cấp-dư"ng thức-ăn, chỗ ở, đồ mặc. Đó là sự nh(c) vă lẫn nhau trên đư(c)ng sanh nghiệp. Ấy vậy, nên mảnh thân phàm của ngư(c)i đến Thế-gian nầy, chẳng phải để làm việc riêng cho ḿnh, mà v́ sự liên-đới với vạn-vật ; thành thử, chẳng có một cá nhân nào có quyền sống riêng, mà trái lại, phải đem kiếp sống mà phụng sự cho Chúng-sanh toàn thể, hoặc với cách nầy, hoặc với phương khác. Nghiệp quả ấy, nếu biết, th́ có thể trả xong trong ṿng một kiếp ; c̣n như chẳng biết, th́ con ngư(c)i ấy phải chịu luân chuyển trong biển tử-sanh, cùng đà sanh hóa, mà cũng chưa ắt kham. Nói rút lại : hai phần công quả kể trên th́ nhiều, nhưng Kinh Phật tóm tắt như vầy : Chư ác mạc tác ; Chúng thiện phụng hành ; Tự tịnh kỳ ư ; Thị chư Phật giáo ; Nghĩa là mọi việc ác chẳng khá làm ; nhiều việc lành cũng phải vâng theo. Tự ḿnh trừng ư cho đư(r)c thanh-tịnh. Đó thiệt là giáo-luật của Phật vậy. Công-quả đối với kẻ tu-hành rất quan-trọng. Bài Thánh-ngôn của Đức CHÍ-TÔN kế đây đủ chứng minh sự quan-trọng ấy. Thánh-ngôn. "Ngư(c)i ở Thế-gian muốn giàu phải t́m phương thế mà làm ra của. Ấy "là về phần vật-chất ; c̣n Thánh, Tiên, Phật muốn đắc Đạo th́ phải "công-quả. Thầy đến độ rỗi các con, Thầy lập thành một trư(c)ng công-đức "to cho các con nên Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng, là tại các con muốn, "cùng chẳng muốn. Thầy nói cho các con nghe : nếu chẳng đến trư(c)ng Thầy "mà đoạt thủ địa-vị th́ chẳng đắc Đạo bao gi(c)." C̣n một lẽ n"a là theo lư đương nhiên : hễ có học th́ phải có thi để rơ tài đức của Học-sinh. Th́ sự tu-hành cũng không ngoài công-lệ ấy ; nghĩa là : kẻ học phải chịu thử thách, coi phải ḿnh là kẻ đạo đức chơn thật chăng. "Vàng có lửa trui th́ mới rơ vàng mư(c)i." Trong sự thực-hành đạo-đức, từ trước đến gi(c) : từ một vị Đại-Thiên-Phong đến một em Đồng-nhi, ai cũng biết qua một phần nào rồi vậy. Hơn n"a, điều ấy Cổ-nhơn đă trải qua và c̣n lưu l(c)i nói trong kinh-điển như vầy : "Vô Ma-khảo bất thành Đạo-Đạo." Không Ma-khảo th́ Đại-Đạo không thành. Lại nói :"Đạo cao nhứt xích, Ma cao nhứt trư(r)ng, Đạo cao nhứt trư(r)ng, Ma thư(r)ng đầu nhơn." Đạo cao một thước th́ Ma cao một trư(r)ng, Đạo cao một trư(r)ng th́ Ma lên khỏi đầu ngư(c)i. Có ngư(c)i nói : sự tu-hành để giải thoát kiếp luân-hồi thật khó khăn lắm vậy. Tuy thế mặc dầu, mà từ xưa đă có biết bao nhiêu ngư(c)i đă thành công đắc quả. Mà hễ một việc nào đă có ngư(c)i làm đư(r)c th́ việcấy dễ ; chớ chẳng khó. Than ôi ! việc tu-hành kẻ nói khó, ngư(c)i nói dễ, không biếtđâu mà lư(c)ng ; nhưng theo kinh nghiệm, chúng tôi hiểu rằng : khó hay dễ đều do ḿnh cả. Nếu chí tâm hành đạo th́ việc khó hóa ra dễ ; c̣n như chán nản th́ việc dễ cũng thành khó. Tóm lại : 1)- Giáo-lư về mặt lư-thuyết, tức là đọc sách tụng kinh, mà không áp dụng vào đ(c)i sống thực tế th́ không có kết quả đáng kể. 2)- Nhắc lại sự thực hành Giáo-lư, tức làm công-quả-nội vaé công-quả-ngoại đă nói trên. Mục-đích làm cho học-viên biết sự "Tri hành hiệp nhứt" mà phải áp dụng ngay, khi học bài. Thêm n"a, chúng ta đă hiểu rằng Chúng-sanh có can hệ mật-thiết với Đạo, như đă nói trong trương trước ; nghĩa là Chúng-sanh phải nương theo Đạo mà sanh sống và tấn-hóa ; cho nên, khi hóa sanh vạn-vật rồi ; Đức CHÍ-TÔN : hoặc phân tánh giáng sanh, hoặc phái một vị Tiên, Phật giáng Trần lập Đạo, giáo-hóa, làm cho Chúng-sanh biết phương pháp sửa ḿnh theo Đạo ; v́ thế mà chúng ta thấy hiện gi(c) có nhiều Tôn-giáo và mỗi Tôn-giáo có một h́nh-thức khác thật ; nhưng tựu trung Tôn-giáo nào cũng dạy Chu&ng-sanh tu hành theo Chánh-Đạo hầu trở về với Cội-sanh ḿnh là Tr(c)i. Nay Đức CHÍ-TÔN, dùng huyền-diệu cơ-bút lập Đại-Đạo ba kỳ, Tôn-chỉ cũng không ngoài sự giáo-hóa Chúng-sanh : một là biết bổn-phận làm ngư(c)i, hai là biết phương phÁp tu-hành đặng giải-thoát kiếp luân-hồi sanh-tử. Cách học-hành sẽ nói sau ; bây gi(c) chúng tôi xin nhắc sự ăn chay và kiêng rư(r)u ; đó là th(c)i kỳ chuẩn bị nhập môn hành-đạo.
ĂN CHAY
Ăn chay nghĩa là chúng ta dùng lê-hoắc và ngũ-cốc mà thôi. Tại sao kẻ học-đạo phải ăn chay ? Xin xem kế đây : Khoa-học lấy trí-thức làm căn-bổn : suy nghĩ, khảo-cứu vật-chất bên ngoài. Chung cuộc khoa-học thâu hoạch kết quả, để bồi bổ vào cuộc đ(c)i sống thực-tế. C̣n Đạo-học có mục-đích thâm-viễn hơn, là cầu giải-thoát kiếp luân-hồi, đặng vào cơi chẳng sanh chẳng già. Muốn đạt mục-đích ấy, học-giả phải thâu thập cả tánh mạng luyện thành một khối tinh thần khương-kiện sáng-suốt, tên gọi là Chơn-thần ; nó phải nhẹ nhàng hơn Không-khí mới vư(r)t ra khỏi ṿng Càn-khôn. Tại sao ? Bởi v́ trong Không-khí có điển-lực ; nếu kẻ ăn mặn mà luyện Đạo, khi xuất Thần th́ Chơn-thần ấy vẫn c̣n trư(r)c khí lẫn-lộn, mà trư(r)c-khi& vốn là vật-chất, hay tiếp điển (bon conducteur d'électricité). Khi ấy, nó chưa ra khỏi lằn Không-khí th́ đă bị sét đánh tiêu diệt rồi. Ấy là một lẽ mà kẻ học đạo phải ăn chay. Lẽ thứ hai : theo luật hấp dẫn, nếu Chơn-thần c̣n trư(r)c khí khi xuất ngoại phải bị hấp-lực của cơi Trần vật-chất giam-hăm trong ṿng sanh-tử. Như thế nếu kẻ tu-hành không ăn chay th́ làm thế nào mà giải-thoát kiếp luân-hồi. Lẽ thứ ba : Phép vệ-sinh dạy chúng ta phải ăn ở sạch-sẽ. Sạch-sẽ nói đây, chúng ta phải hiểu rộng hơn là : chẳng nh"ng gi" ǵn sạch-sẽ bên ngoài, mà c̣n phải sạch sẽ bên trong n"a. Ăn chay dễ tiêu hóa, tức là ǵn gi" sạch sẽ bên trong tạng phủ. Thêm một lẽ thứ tư n"a là thực-hành ḷng "Bác ái". Theo cái lư "Thiên địa vạn-vật nhứt thể", chúng ta cùng các loài sinh-vật là anh em với nhau ; nghĩa là cả Chúng-sanh đều do một nguồn Tạo-hóa sanh thành. Quan niệm ấy không cho phép chúng ta giết mạng để ăn thịt. Vả lại, ngư(c)i ta có hai thức ăn để bồi-dư"ng thân thể là : Vật-chất-thực và Huyền-vi-thực. Vật-chất-thực là : Ngũ-cốc và các món ăn mư(c)ng tư(r)ng như thế, do miệng vào t́ vị. Huyền-vi-thực là thanh-khí ở trong Vơ-trụ ; ngư(c)i ta nh(c) hô-hấp tiếp nạp thanh-khí vào thân-thể, để bồi-dư"ng sức khỏe. Nói tỷ : mỗi ngày chúng ta phải cần sáu cân đồ ăn, để bổ-dư"ng thân thể. Trong sáu cân đồ ăn đó ; chia ra ba cân Huyeến-vi-thực và ba cân Vật-chất-thực. Ấy vậy, nếu chúng ta thêm Huyền-vi-thực và bớt Vật-chất-thực, càng bớt bên kia, càng thêm bên nọ ; chung cuộc, mỗi ngày chúng ta cũng có đủ sáu cân đồ ăn, để bồi dư"ng thân thể. Công phu ấy tiến lên n"a th́, về sau quen rồi, chúng ta có thể sanh sống với Huyền-vi-thực đư(r)c. Đó là cứu cánh phép tu-hành ; nhưng, chúng ta là kẻ ở Thế-gian, đă quen dùng vật-chất để nuôi sống ; nay thoạt nhiên, đổi món ăn cấp kỳ, e tạng phủ chưa quen mà phải sanh rối loạn. Bởi thế, nên ngư(c)i tu-hành phải tập lần. Ban đầu, mỗi tháng ăn chay sáu lần, rồi mư(c)i ngày, rồi mư(c)i lăm ngày, trư(c)ng trai, rồi sau sẽ tập n"a cho quen dùng Huyền-vi-thực. Nhưng, phải hiểu rằng tuyệt-thực là một ư nghĩa cứu cánh, ngư(c)i thư(c)ng như chúng ta chưa có thể làm được. Khuyên ai chớ nên dục tốc mà phải lâm hại.
KIÊNG RƯợU Vấn đề kiêng rư(r)u sẽ theo vấn-đề ăn chay mà giải quyết ; mặc dầu vậy, chúng tôi cũng chép bài Thánh-ngôn của Đức CHÍ-TÔN dạy về sự kiêng rư(r)u, để cho rơ đại-ư. Thánh-ngôn.- V́ sao phải giới tửu ? "Thân-thể con ngư(c)i là một khối Chơn-linh hiệp thành ; Chơn-linh "ấy hằng sống. Ngũ-tạng, Lục-phủ cũng là khối sanh vật tạo nên. Phận "sự của chúng nó : Hoặc hiểu biết, hoặc không, đều tùy lịnh Thầy phán "đoán. Vậy Thầy lấy h́nh chất xác phàm để giảng dạy. "H́nh chất con ngư(c)i cũng như h́nh chất thú, phải ăn uống mới "sống đư(r)c. Rư(r)u vào t́ vị ; chạy khắp ngũ-tạng, lục-phủ. Trái tim là "chủ động của bộ máy sanh sống ; mà trái tim bị rư(r)u thâm nhập, khiến "cho nó rung động quá mực thiên nhiên đă định ; thôi thúc huyết mạch "vận hành một cách quá mau lẹ. Sanh-khí nơi phổi không có đủ ngày gi(c) "nhuận huyết ; rồi trư(r)c khí thối nhập trong thân thể, truyền thống "chất độc vào trong nh"ng sanh vật. Mỗi khối sanh vật ăn rồi phải bịnh, "càng ngày càng tăng thêm lên, rốt cuộc hết sanh lực, cốt tủy lần lần "phải chết, thân thể tự nhiên chết theo. Nhiều kẻ bị liệt hết nửa thân "h́nh, cũng v́ rư(r)u. "Thầy nói sự hại cho phần Hồn : Thầy nói Chơn-thần là khí chất "bao bọc thân thể của các con. Trung tim nó là óc, cửa xuất nhập là "mỏ ác, ch" gọi là Vi-hộ, Hộ-pháp hằng đứng gi" ǵn các con, khi luyện "đạo, đặng giúp cho Tinh hiệp với Khí, rồi đưa Khí đến Chơn-thần. "Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt mới siêu phàm nhập thánh. Óc là nguồn cội của "sanh-khí, mà óc cũng v́ huyết mạch vận chuyển vô chừng, đến đỗi tán "loạn. Thế rồi Chơn-thần an tịnh thế nào đặng. Thân thể phải chịu ngây "dại, trở lại thú tánh, thú chất. Như vậy th́ mất hết nhơn-phẩm rồi, "c̣n mong chi đến địa vị Thần-Tiên. Lại n"a, trong buổi loạn Thần, cửa "để trống, tà-mị thừa cơ xung-nhập, giục các con làm quấy gây nên tội "t́nh mà phải chịu nhơn quả luân hồi muôn kiếp. "Vậy Thầy cấm các con uống rư(r)u". Vấn đề kiêng rư(r)u nầy, có lẽ trong hàng anh em chúng ta, ngư(c)i nào cũng có bị một lần say rư(r)u. Vậy sự kinh nghiệm ấy đă dạy chúng ta biết với một cách rơ ràng, rằng say rư(r)u chẳng phải loạn trí năo, mà ngũ-quan cũng không c̣n gi" đư(r)c chơn lực n"a. Thế th́ giới tửu là một điều cấm quan trọng vậy.
CHƯƠNG THỨ TÁM ---
H THỪA
Dẫn giải.- Tân-luật Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ định rằng : Hạ-thừalà hạng ngư(c)i gi" đạo, c̣n ở Thế, có v(r) chồng, làm ăn như thư(c)ng ; song, phải gi" trai kỳ, hoặc sáu hoặc mư(c)i ngày trong mỗi tháng, phải gi" Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại điều-qui và tuân theo "Thế luật" của Đại-Đạo. Chúng tôi theo thứ tự trên đây mà giảng giải, để làm phương châm cho sự học tập.
*
NGŨ-GIỚI-CẤM
Cấm "sát sanh" là không đư(r)c giết hại mạng sống. Cấm "trộm cướp" là không đư(r)c trộm cắp của ngư(c)i. Cấm "tà dâm" là không đư(r)c thông gian. Cấm "uống rư(r)u" là không đư(r)c uống rư(r)u say sưa Cấm "nói dối" là không đư(r)c nói láo xư(r)c, hoặc nói mà chẳng gi" l(c)i (xem năm bài giới cấm).
TỨ ĐI ĐI"U QUI
1)- Phải tuân l(c)i dạy dỗ của ngư(c)i trên ; chẳng hổ chịu cho kẻ thấp hơn điều độ. Lấy lễ ḥa ngư(c)i ; l" lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt. 2)- Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên ḿnh để làm nên cho ngư(c)i ; giúp ngư(c)i nên Đạo ; đừng cừu riêng ; chớ che lấp ngư(c)i hiền. 3)- Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mư(r)n vay không trả. Đối với ngư(c)i trên, kẻ dưới đừng l(c)n dễ ; đối vớ kẻ dưới, ngư(c)i trên chẳng khá khinh khi ; trên dạy dưới lấy lễ ; dưới gián trên chớ thất khiêm cung. 4)- Trước mặt sau lưng đều xử một mực, đừng kính trọng trước mặt mà khinh l(c)n sau lưng.
SANH KẾ
Ngư(c)i trong đạo chẳng đư(r)c làm nghề nghiệp có sát hại sanh mạng ; chẳng đư(r)c làm nghề nghiệp có phạm đến sự tồi phong bại tục ; chẳng đư(r)c soạn hay ấn hành nh"ng truyện sách ái-t́nh, hoa nguyệt, chẳng đặng buôn bán các thứ rư(r)u mạnh và á-phiện, là nh"ng vật độc, làm giảm sức con ngư(c)i. Chương "Thế-luật" Đại-Đạo gồm có hai mươi bốn điều, kể đủ nh"ng cự quan, hôn, tang, tế, mà ngư(c)i bổn đạo phải thù-tạc văng-lai, để giúp đ" nhau khi h"u sự ; nhứt là câu : Trai phải Tam-cang, Ngũ-thư(c)ng ; Gái phải ǵn Tam-tùng, Tứ-đức ; đó là căn-bản đạo ngư(c)i ; chúng tôi sẽ giảng rộng sau đây :
PHN TRAI ---
Tam-cang - Ngũ-thư(c)ng
Tam-cang.- Tam-cang là ba giềng mối chánh trong đạo làm ngư(c)i : Quân-thần cang tức bổn phận làm vua và làm tôi Phụ-tử cang tức bổn phận làm cha và làm con Phu thê cang tức bổn phận làm chồng và làm v(r)
Quân-thần-cang
Giềng mối Vua-tôi. Quốc-trưởng là bậc Đế-vương, đứng đầu trong nước, khôn ngoan hơn thần dân, chúng ta không nghị luận đến, mà chỉ nên nhắc nhở nhau, nh"ng bổn phận làm quan và làm dân thôi ; bởi v́ trong hàng anh em chu&ng ta, có ngư(c)i làm quan mà cũng có kẻ làm dân.
Bổn phận làm quan
Quan là ngư(c)i thay mặt cho Vua, thay quyền cho chánh-phủ, cai-trị dân. Trị-dân : nghĩa là : dạy dân, gi" dân đư(r)c an-cư lạc-nghiệp. V́ vậy nên ngư(c)i làm quan phải thương dân, như cha mẹ thương con, thế mới h(r)p với câu "Dân chi phụ mẫu". Ngư(c)i làm quan, trên gi" dạ ngay th(c) chúa, dưới lấy đức chăn dân lo tṛn phận sự để nêu danh tốt về sau ; chớ chẳng khá bắt chước nh"ng con giặc, tôi-loàn, trên dối Vua, dưới gạt dân ; mà mang điều nhục-tổ hổ-tông. Làm quan nên lập đức :"Thanh-liêm, Cần-mẫn, Chánh-trực". Thanh-liêm : th́ không tham của hối-lộ mà hại dân lành. Nên nhớ rằng nhà nước tin-cậy, giao mạng sống của dân trong tay ta ; nếu ta v́ của bất chánh mà làm việc bất công : chuyện phải làm quấy, việc quấy làm phải, điều ấy có thể dấu đư(r)c lịnh Vua, chớ luật Tr(c)i đâu dễ che lấp. Thế nên làm quan phải gi" đức thanh liêm. Cần mẫn : là siêng năng. Thi hành bổn phận nhà quan, ta nên siêng năng : một là ngừa kẻ gian-manh trộm cướp, hai là ngăn kẻ ỷ chúng, hiếp cô, để cho lương dân đư(r)c sống yên dưới bầu Tr(c)i an-tịnh. Chánh-trực : là một đức lớn của nhà quan. Kẻ bất chánh,th́ không hay làm đư(r)c việc công-b́nh ; mà bất công th́ làm sao trị dân.
BỔN PHN LÀM DÂN
Làm dân th́ phải lo tṛn bổn phận Công-dân. Trên phải tuân l(c)i quan, dưới thuận cùng đồng loại. Quan là ngư(c)i thay mặt cho Vua ; tuân lịnh quan tức trung với Vua. Thuế sưu lo tṛn, không nên lập đoàn, hiệp-lũ mà gây ra trộm cướp, phá xóm, phá làng ; ấy là thương yêu ṇi giống.
PHỤ TỬ CANG
Giềng mối cha con. Làm cha phải lành (Từ) ; làm con phải thảo (Hiếu). Vi nhơn phụ chỉ ư từ. Ch" Từ (Lành) chỉ về nghĩa vụ làm cha mẹ, phải nuôi con cho nên vai, nên vóc, dạy dỗ con cho nên ngư(c)i h"u dụng. Ngư(c)i cha mẹ lành cũng có khuyên con, răn con, nghĩa là cũng có la rầy, đánh mắng, làm thế nào cho con bỏ cái dở, theo cái hay ; chớ chẳng phải lành là chiều theo ư con muốn làm ǵ th́ làm. Tại sao ngư(c)i cha không để cho con đư(r)c tự do hành động. Bởi v́ con c̣n thơ ấu, trẻ ḷng, non dạ. Nói tóm là con chưa đủ sáng láng, để phân biệt phải quấy và chưa đủ tinh thần cứng rắn, để vư(r)t qua nh"ng gi(c) vật dục cám dỗ. Ấy vậy nên ngư(c)i cha mẹ phải d́u dắt con trên đư(c)ng đạo đức quang minh. Gia đ́nh giáo-dục là căn bản đạo ngư(c)i. Đối với con, cha mẹ cũng có quyền, như : nh(c) con nuôi dư"ng lúc về già, nh(c) con giúp đở việc nặng-nề. Cổ-nhơn nói :"Dư"ng nhi đăi lăo". (Nuôi con để nh(c) lúc về già). Nhưng, cha mẹ muốn dùng quyền ấy, trước phải làm xong nghĩc vụ ḿnh, tức là nuôi con, dạy con, cho nên ngư(c)i. Trái lại, nếu cha mẹ không làm tṛn bổn phận ḿnh, mà cứ sai con, mắng con, như thế là thất phận cha mẹ. Vi nhơn từ ư chi hiếu. Thảo là đạo làm con, chẳng nh"ng không ai đư(r)c từ khước, mà ai cũng phải coi đó là bổn phận của ḿnh n"a. Cổ-nhơn nói :"Nhơn sanh bá hạnh, Hiếu vi tiên". Ngư(c)i đ(c)i có trăm nết, song Hiếu đứng đầu. Tại sao ngư(c)i ta phải hiếu với che mẹ ? Ôi ! Công sanh thành dư"ng dục kể sao cho hết, nào là mư(c)i tháng cưu mang, ba năm bú móm ẵm bồng, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. C̣n cha là phải dày công dạy-dỗ, cực nhọc, tảo-tần, dầu trăm cay ngàn đắng, dầu vào cảnh nguy nan, ngư(c)i cha cũng không từ ; miễng là làm ra cơm tiền, để nuôi con th́ thôi. Công cha như núi Thái sơn. Nghĩa mẹ công cha như thế, hỏi vậy ở đ(c)i, có ngư(c)i nào mà chẳng thương mến chăng ? Ắt không. Nhưng, thương mến chưa đủ, nghĩa vụ làm con bắt buộc ngư(c)i ta phải tṛn đạo Hiếu. Thực hành đạo Hiếu, trướt nhứt là nuôi cha mẹ. Sự nuôi ấy cốt ở ḷng thành kỉnh, giàu nuôi theo giàu, nghèo nuôi theo nghèo ; ngoài miếng ăn, miếng uống, tấm áo, manh quần, c̣n phải hết ḷng vui vẻ trong phận sự, để cho cha mẹ đư(r)c vui ḷng. Một hôm Thầy Tử-Du hỏi ch" Hiếu ; Đức Khổng-Phu-Tử đáp :"Ngày nay ngư(c)i ta bảo hiếu là biết nuôi cha mẹ ; nhưng, đến như giống chó ngựa kia cũng có ngư(c)i nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà không kính, th́ lấy ǵ để phân biệt với sự nuôi cầm thú". Vậy đủ biết nuôi cha mẹ quí tại ḷng thành kính. Chẳng nên bắt chước câu :"Giàu th́ đặng thảo ngay, nghèo th́ mất trung Hiếu" l(c)i ấy chẳng qua là nói để che lỗi của ḿnh mà thôi. Trái lại, nên nhớ câu :"Nhà nghèo mới có con thảo, nước loạn mới có trung thần". từ xưa, nh"ng gương trung hiếu tiết liệt, phần nhiều xuất hiện trong nhà nghèo khó. Khi ở chung với cha mẹ, không nên làm buồn ḷng của cha mẹ, nếu ḿnh có việc buồn riêng, cũng chẳng nên tỏ sắc giận h(c)n cho cha mẹ thấy. Khi cha mẹ quở trách th́ phải tự xét ḿnh mà chừa lỗi ; chớ chẳng khá buồn. Cha mẹ già phải coi chừng sức khỏe, nghĩa là nuôi cha mẹ phải xem đến chỗ chưa nói kia. Tại sao ? Bởi v́ có nhiều khi cha mẹ s(r) con lo buồn mà chẳng tỏ ra nh"ng việc ngư(c)i cần. Cha mẹ lúc sanh tiền chẳng nên đi xa ; nếu cần đi vắng th́ phải cho biết chỗ, để ngư(c)i nhà t́m cho dễ, khi h"u sự. Cha mẹ đau ốm, kẻ làm con phải tận tâm chạy thuốc, chạy thầy, chính ḿnh phải lo liệu mọi phương ; nếu giao cho kẻ khác, biết đâu, ngư(c)i ấy, v́ sơ sót làm thêm bịnh cho cha mẹ ḿnh. B́nh nhựt cũng phải xem chừng : nếu cha mẹ khỏe th́ vui mừng, mệt th́ lo lắng. Ḷng hiếu thảo ai cũng có, nhưng, có một ít ngư(c)i xao lảng, v́ ham mê sắc dục, hoặc tiền của, rồi sanh ngỗ nghịch. Vậy ai là ngư(c)i làm con, nên thận trọng bổn phận của ḿnh. Nhưng đạo Hiếu không phải nhắm mắt phục tùng cha mẹ ; mà trái lại, phải xem xét cái ǵ của cha mẹ đă làm ; nếu hay th́ theo, c̣n lầm mỗi th́ ôn tồn khuyên can, sửa đổi. Nếu cha mẹ không nghe th́ lại kính mà không trái lễ, nghĩa là lần lần lựa cách nói cho cha mẹ nghe lẽ phải, để sửa đổi ; có khi cha mẹ giận mà đánh đập cũng không h(c)n oán. Cha mẹ mất th́ phải tang chế. Cổ nhơn bảo :"Tang tắc trí kỳ ai". Tân-luật Đại-Đạo định rằng : viêc tang chế không nên xa xí, không nên quàn linh c"u lâu ngày, không nên dùng đồ Âm-công ḷe-loẹt, không nên đăi đằng rần rộ mà mất sự nghiêm tịnh ai bi. Đức Khổng-Phu-Tử cho sự th(c) cha mẹ rất Hiếu là :"Kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn. Hiếu chi chí dă". Kính nh"ng ngư(c)i cha mẹ đă tôn trọng, yêu nh"ng ngư(c)i cha mẹ đă mến, th(c) cha mẹ lúc chết cũng như khi sống, mất cũng như c̣n. Ấy là Hiếu rất mực vậy. Theo đó th́ suy ra th́ khi cha mẹ chết rồi kẻ làm con cũng tưởng như khi cha mẹ c̣n sống, chuyên tâm tŕ chí làm tṛn bổn phận, thỉ chung như nhứt.
* Bổn phận làm Anh Chị và làm Em Huynh tắc đễ, Đệ tắc cung
Anh em, chị em, đồng thọ sanh nơi một cha mẹ. Tục ng" nói :"Một cục máu xắn làm năm ba". Đồng cốt nhục, đồng bào thai, và từ lúc nhỏ dại : ở chung một nhà,ăn chugn một mâm, nằm chung một chiếu ; vui có nhau, buồn có nhau, nhứt nhứt đều chung cùng với nhau. Vậy cái t́nh thương yêu khắn-khít ở gi"a anh chị và em không t́nh nào hơn đư(r)c. Muốn gi" cái t́nh máu mủ ấy măi măi, th́ ngư(c)i anh chị phải biết bổn phận ḿnh là thuận yêu, kẻ làm em phải biết bổn phận ḿnh là cung kính. Khi cha mẹ vắng mặt, ngư(c)i anh chị phải quyền huynh thế phụ, nghĩa là ngư(c)i anh chị có trách nhiệm khuyên răn em, sai khiến em ; nhưng, muốn dùng quyền ấy th́ ngư(c)i anh chị phải làm tṛn nghĩa vụ của ḿnh, là thay mặt cho cha mẹ nuôi em, dạy em. Cổ-nhân thư(c)ng khuyên nhau rằng trước phải làm nghĩa vụ rồi sau mới dùng quyền l(r)i, là lẽ như vậy. Theo lư thư(c)ng nhiên, lúc thành nhơn th́ mỗi ngư(c)i đều có gia thất. Mặc dầu xa cách nhau, nhưng anh em, chị em phải gi" cái t́nh cốt nhục duy nhất ấy măi măi ; nghĩa là phải thương yêu, giúp đ" nhau : việc nhỏ cũng như việc lớn ; mà muốn gi" tṛn cái t́nh cốt nhục ấy, phải tránh nh"ng tiếng to, tiếng nhỏ ; của v(r) con hay chồng con. Theo thư(c)ng t́nh, nh"ng em chồng, chị dâu, em rễ, anh v(r), hay chinh nghiêng lẫn nhau ; v́ nh"ng việc nhỏ mọn. Bổn phận anh chị, hay em út phải sáng suốt mà phân định, để tránh cái vạ chia ĺa. Anh em, chị em là di-hài của cha mẹ, bất ḥa là phá hoại cái di-hài ấy. Anh em, chị em như tay chơn, bất ḥa là chia ĺa thủ túc. Ngư(c)i nào xử đư(r)c đạo Hiếu-đễ nghiêm trang trong gia-đ́nh, th́ ngư(c)i ấy có tinh thần ḥa-kỉnh. Hiếu-thuận là gốc Đạo xử-thế, ấy vậy nên ngư(c)i trọn thảo thuận th́ có ḷng trung-quân, ái-chủng.
*
Bổn phận con cháu đối với ông bà
Ông bà là đấng sanh thành, dư"ng-dục cha mẹ, lại là đấng mà cha mẹ thương mến quí trọng. Đạo-hiếu buộc ngư(c)i làm con phải kính trọng nh"ng ngư(c)i mà cha mẹ thâm giao. Ấy đó là nh"ng ngư(c)i bàng-quanmà c̣n phải xử trí như thế, huống chi ông bà là ruột thịt của chúng ta, mà chúng ta lại dễ-duôi sao ? Ấy vậy khi ông bà sanh tiền, chúng ta phải thay mặt cha mẹ mà chăm nom giúp đ", nh"ng việc nào mà chúng ta có thể làm đư(r)c. C̣n khi ông bà qua đ(c)i th́ lại thay mặt cha mẹ mà th(c) phư(r)ng, cúng-tế. Luân-lư cổ-truyền của ngư(c)i Việt Nam dạy rằng : ngày tế-tự, cả gia-tộc h(r)p về nhà th(c), lo việc tế-lễ. Hai ngày : Tiên-thư(c)ng và Chánh-giỗ, nh"ng ngư(c)i họ hàng vui vầy : có khi nhắc lại sự tích Tổ-tiên, có lúc hỏi việc hàn-huyên gia-tộc. Gi(c) cúng tế mỗi ngư(c)i đều có ḷng thành kỉnh rất mực. Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn th(c), họ cúi đầu tỏ vẻ s(r) sệt, dư(c)ng như Ông Bà đương ngự trên chỗ sở-tôn. Gi(c) tế-lễ ấy, hoàn-cảnh yên lặng, ngư(c)i Trưởng-tộc hành lễ, rồi đến con cháu cứ theo thứ tự vái lạy trang nghiêm. Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ gi" nguyên vẹn cái lễ th(c) cúng Ông Bà đó. Vả chăng, đạo-h"u đă sẵn có đạo-tâm, nay đem loéng đạo-đức ấy mà th(c) cúng Ông Bà th́ có lẽ cái phong tục cổ-truyền sẽ đư(r)c tăng phần thuần-mỹ n"a.
*
Bổn phận đối với Cậu Cô Chú Bác
Cậu cô chú bác là anh em ruột thịt với cha mẹ, kẻ làm con chẳng nh"ng phải yêu mến, mà c̣n quí trọng, như cha mẹ n"a. Nếu vô phước mồ côi, th́ chính cậu cô, chú bác, là ngư(c)i thay mặt cha mẹ mà nuôi ḿnh. Đó đủ thấy rằng kẻ làm con phải thương mến quí trọng cô cậu, chú bác như cha mẹ. Khi thành gia thất rồi, tự-nhiên ai cũng có cậu cô, chú bác bên chồng, cũng như bên v(r). Kẻ làm con cháu cũng không v́ lẽ ǵ mà chẳng thân ái nh"ng ngư(c)i ấy.
*
PHU-THÊ-CANG
Giềng mối chồng v(r)
Chồng ḥa, v(r) thuận. Trai lớn lên th́ có v(r) ; Gái lớn lên th́ có chồng. Ngư(c)i ở đ(c)i, ai ai cũng phải có đôi bạn, rồi sau mới lập gia đ́nh. Cái định luật ấy từ xưa đến nay, vẫn không thay đổi. Trong đạo v(r) chồng, có điều tốt nhứt là hai ngư(c)i ấy đư(r)c thuận ḥa, ăn ở với nhau, từ tóc xanh, đến đầu bạc. Mà muốn đư(r)c vậy th́ mỗi ngư(c)i phải biết bổn phận của ḿnh và phải hành-vi trong phạm-vi ấy. Chồng là rư(c)ng cột của gia đ́nh, phải đảm đương mọi việc bên ngoài, để tạo hạnh-phúc cho gia-đ́nh, nghĩa là phải làm lụng cho có cơm, có tiền để nuôi dư"ng gia-đ́nh no-ấm ; kế đó, sẽ nói đến việc lễ-nghi đạo đức, tức là bày ra việc dạy dỗ. Cổ-nhơn nói :"Giáo-phụ sơ lai, giáo-tử anh hài". Nghĩa là dạy v(r) lúc ban sơ mới về, dạy con lúc c̣n thơ ấu. Mà muốn dạy ngư(c)i, trước phải sửa ḿnh. Giả tỉ như ngư(c)i chồng biếng nhác, không lo làm ăn, quanh năn cứ lêu-lơng chơi-b(c)i, c(c) bạc. Chồng như thế mà bảo v(r) nên ngư(c)i, th́ không thể đư(r)c ; hoặc giả cha như thế mà bảo con đừng c(c) bạc, rư(r)u trà cũng không sao đư(r)c. Ngư(c)i chồng chẳng nh"ng phải lo làm lụng để tạo hạnh-phúc cho gia đ́nh, mà c̣n phải có tinh-thần ḥa-ái n"a. Về tâm lư, nên biết rằng v(r) là bạn trăm năm, cha mẹ sắm cho. Đàn bà là ngư(c)i yếu đuối, nương dựa nơi ḿnh, gởi thân cho ḿnh, để cùng nhau lo việc trăm năm gia thất. Hơn n"a, v(r) chồng lại là ngư(c)i đầu ấp, tay gối với nhau, vui chung vui, buồn chung lo, nghèo chung chịu, giàu chung hưởng. Ḷng có nghĩ như thế th́ mới có dạ yêu đương và đùm bọc. Ngư(c)i chồng có quyền khuyên lơn, dức bẩn ngư(c)i v(r), nhưng, trước phải làm xong nghĩa vụ của ḿnh, như nói trên, rồi sau mới dùng đến quyền. Tuy nói rằng có quyền, nhưng, ngư(c)i chồng, lúc nào, cũng lấy tinh-thần ḥa-ái làm cốt. Nghĩa là có khuyên lơn, dức bẩn ngư(c)i v(r) th́ cũng chỉ trong ṿng lễ nghi, kính-mến ; chớ chẳng khá đang tay đánh đập, như kẻ vơ phu. Ngư(c)i v(r) phải có tinh-thần thuận-tùng, nghĩa là phải biết dung-ḥa với chồng, để tạo hạnh phúc gia-đ́nh. Bát trong sóng c̣n động, huống chi v(r) chồng ăn ở với nhau cả đ(c)i, làm thế nào tránh khỏi một đôi khi bất đồng ư kiến. Giả tỉ như có trư(c)ng h(r)p ấy xảy ra, th́ v(r) chồng nên nhịn nhục lẫn nhau, chồng nói v(r) nghe, v(r) nói chồng nghe, để phÂn trần điều hơn lẽ thiệt. Tương-y, tương-ỷ mà sanh sống trong ṿng lễ-nghi đạo đức ; điều đó là tốt nhứt ; chẳng nên bắt chước phư(c)ng hỗn-ẩu, chồng một l(c)i đi, v(r) năm bảy tiếng lại. Thế rồi sanh việc bất-ḥa ; mà chồng v(r) bất-ḥa th́ gia-đ́nh tan nát. Phận gái trọng nhứt là trinh-tiết ; bởi vậy ngư(c)i phụ-n" có thân phải gi" lấy thân ; mỗi ngày phải làm tăng giá-trị của ḿnh thêm cao lên măi. Tục g" nói :"Đi ngang đám dưa không nên sửa dép ; đi ngang cây lư không nên sửa mũ". Đại ư câu nầy khuyên ngư(c)i ta phải hành-vi, ăn nói, đi đứng trang-hoàng, nhứt là phải tránh nh"ng cử chỉ nào làm ngư(c)i khác ng(c) vực, cũng như đi ngang đám dưa th́ không nên sửa dép, hoặc đi ngang cây lư không nên sửa mũ, v́ làm như thế ng(c) rằng ḿnh bẻ trộm dưa, hay hái trộm lư. Nội tr(r) là bổn phận đàn bà, cho nên ngư(c)i v(r) phải chăm lo việc nhà : thiếu đủ phải biết, c̣n hết phải hay, sắp đặt đâu đó an bày, ăn cần ở kiệm, phải trọng tiền của chồng làm ra. Tục ng" nói :"Ăn nhịn qua ngày, ăn vay mắc n(r)". Của chồng công v(r), chồng v(r) cộng tác, để tạo hạnh phúc gia-đ́nh. Tóm lại, đạo v(r) chồng cần nhứt là phải thuận-ḥa, chồng chẳng nên ỷ quyền mà hiếp đáp v(r), v(r) không nên cậy thế mà hỗn-ẩu với chồng. Đồng v(r) đồng chồng tát biển đông cũng cạn ! Tân-luật Đại-Đạo nói :"Hôn nhơn là việc trọng trong đ(c)i ngư(c)i. Phải chọn hôn trong ngư(c)i đồng đạo, trừ ra khi nào ngư(c)i ngoài ưng thuận nhập-môn th́ mới đư(r)c kết làm giai-ngẫu". Đó là có ư ngừa sự bất đồng tâm lư về sau. Tân-luật lại cấm ngư(c)i đàn ông không đặng cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ nửa đư(c)ng, mới đư(r)c chắp nối. Thoảng như v(r) lớn không con nối hậu th́ đư(r)c phép cưới hầu thiếp ; song chính ḿnh Chánh-thê đứng cưới mới đặng. Ngư(c)i đạo cũng chẳng đư(r)c để bỏ nhau, trừ ra ngoại t́nh, hay bất hiếu với công-cô.
*
Ngũ-thư(c)ng
Đổ lên là Tam-cang, c̣n Ngũ-thư(c)ng là ǵ ? Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín gọi là ngũ thư(c)ng, tức là năm đức thư(c)ng, để xây dựng một phẩm vị làm ngư(c)i ; mà chúng tôi giảng kế đây : * NHÂN : Ngư(c)i ta ai cũng có bẩm thọ của Tr(c)i một điểm Linh-quang để làm tự-tánh của ḿnh ; ngư(c)i đ(c)i gọi đó là nguồn Thiên-lư ở trong ngư(c)i. Nhân là cái phát động của nguồn Thiên-lư ấy ; cho nên Cổ-nhân nói : Nhân là hột-giống hóa-sanh đức-tánh tốt. Ch" "NHÂN" đem ra mà ứng dụng vào đ(c)i sống th́ nó gồm tất cả nghĩa vụ làm ngư(c)i ; thành thử, có câu nói : "Nhân là đạo ngư(c)i" (Nhân giả nhơn dă). Thực hành ch" "NHÂN" tức là áp dụng Thiên-lư vào đ(c)i sống thực-tế. Thế nên muốn làm "NHÂN" phải gi" ḷng cho ngay thẳng ; nghĩa là chẳng cho tư-dục xen vào Tâm, để cho nguồn Thiên-lư ở trong Tâm ung-dung phát-triển theo lẽ tự-nhiên của nó, rồi ngư(c)i ta cứ theo đó mà làm cho hết bổn phận của ḿnh. Đó là làm "NHÂN" vậy. C̣n như muốn biết rộng ra n"a th́ chúng ta nên xem Cổ-nhơn dạy phương pháp làm "NHÂN" như sau : Có ngư(c)i hỏi phương-thức làm Nhân là thế nào th́ Đức Khổng-Phu-Tử nói :"Kỹ dục lập nhi lập nhơn" ; kỹ dục đạt nhi đạt nhơn". Năng cận thủ tỷ khả vị Nhân chi phương". Nghĩa là ḿnh muốn lập thân thế nào th́ cũng giúp ngư(c)i cùng lập thân như ḿnh ; ḿnh muốn thông đạt đến đâu th́ cũng giúp ngư(c)i cùng thông đạt như ḿnh. Ai hay làm nh"ng điều đó là làm Nhân vậy. Thầy Tử-Trương hỏi Nhân, Đức Khổng-Phu-Tử nói :"Hăy làm năm điều nầy trong Thiên-hạ là Nhân, rằng : Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung th́ không khinh l(c)n, Khoan th́ đư(r)c ḷng ngư(c)i, Tín th́ đư(r)c ngư(c)i tin cậy. Mẫn th́ có công, Huệ th́ đủ khiến đư(r)c ngư(c)i". Cũng có nhiều ngư(c)i khác hỏi cách làm Nhân, Đức Khổng-Phu-Tử tùy căn cơ kẻ hỏi mà trả l(c)i, để khai hóa sở học của họ. Đạo Nhân rất rộng răi, v́ nó gồm tất cả đạo làm ngư(c)i. Ngư(c)i có Nhân lúc nào cũng có thái độ ung dung tự-tại, b́nh-tĩnh yên lặng, mà trong ḷng luôn luôn có một năng lực Trực-giác mẫn-thiệp ; việc đến th́ họ biết ngay, với một cách mau chóng. Họ làm việc ǵ cũng thích h(r)p Đạo-lư. Họ thật-thà chất-phác mà giàu t́nh-cảm ! Đối với gia-đ́nh th́ hiếu-đễ, đối với xă-hội th́ thuận-ḥa, đối với từng ngư(c)i, từng vật th́ yêu thương giúp đ". Trên thuận ḷng Tr(c)i, dưới ḥa với Chúng-nhơn, cử chỉ hành-động hằng khích lệ trên nền tảng "Vạn-vật nhứt-thể" việc l(r)i danh ở đ(c)i, họ không phải lánh hẳn ; nhưng, họ chẳng bỏ đạo-Đức để cầu l(r)i-danh. Đạo-đức với l(r)i-danh, nếu phải bỏ một th́ họ rất vui ḷng bỏ danh-l(r)i, để cầu Đạo-đức. Đạo Nhân có thứ bậc như : thương cha mẹ th́ khác với thương ngư(c)i láng giềng, thương anh em bậu bạn th́ khác với thương cầm thú. Kịp đến sự giúp đ" cũng vậy ; nghĩa là nuôi cha mẹ th́ khác với nuôi trâu ḅ. Đó là chỗ Đạo Nhân không giống với Bác-ái. Bác-ái dạy ngư(c)i ta phải thương trùm vạn-loại. Ngư(c)i cũng như vật, thân cũng như sơ. Bác-ái dành cho ngư(c)i xuất-thế, ly-gia ; c̣n Đạo Nhân th́ thích ứng với ngư(c)i ở Thế, để thi hành Nhơn-đạo từ trong gia-đ́nh đến ngoài xă-hội. Thử hỏi tại sao ở đ(c)i lại có ngươi nầy hiếp kẻ nọ ? Th́ đó chẳng qua là tại ḷng oán-ghét lẫn nhau. Nếu cha con ghét nhau th́ mất từ-hiếu ; v(r) chồng ghét nhau th́ mất thuận-ḥa ; anh em ghét nhau th́ mất yêu đương ; người trong thiên-hạ ghét nhau th́ người mạnh hiếp kẻ yếu, người giàu lấn kẻ nghèo. Muốn tránh ḷng oán ghét, chúng ta cứ mở ḷng thương yêu (Nhân) cho rộng, rồi tự-nhiên ḷng oán-ghét không có chỗ nương mà phải đi ra khỏi Tâm-gian của ḿnh, cũng như ḥa-b́nh làm hết chiến tranh vậy. * NGHĨA.- Nghĩa là cử chỉ tác-Động theo đạo-lư. Đối với bổn thân : Nghĩa làm cho người thành đức ; c̣n đối với người khác và vật th́ Nghĩa giúp người và vật đư(r)c an vui theo lẽ Đạo. Ch" Nghĩa, nếu theo sau ch" Nhân th́ nó giúp ch" Nhân phát biểu đạo-đức ra ngoài. tỉ như chúng ta thấy kẻ nghèo th́ chạnh ḷng thương, đó thuộc về Nhân. Ra công giúp đ" kẻ nghèo, đó thuộc về Nghĩa. Trư(c)ng h(r)p nầy th́ hai ch" Nhân Nghĩa phải đi kèm nhau mới thành đạo-đức. Trái lại, nếu có Nhân mà không có Nghĩa th́ đạo-đức thiếu h́nh thức ; c̣n như có Nghĩa mà không Nhân th́ đạo-đức thiếu tinh-thần. Giả như chúng ta thương kẻ nghèo mà không ra công giúp đ", th́ ḷng Nhân không thực hiện, c̣n như ra công giúp người nghèo mà không có ḷng thương th́ sự giúp đ" ấy lại v́ một ư ǵ khác ; chớ không phải là Nhân. Nhưng phải hiểu rằng ḷng dục l(r)i của ngư(c)i ta mạnh lắm ; cho nên muốn làm Nghĩa phải ngăn ḷng dục l(r)i, để cho ḷng Nhân phát triển tự nhiên mới đư(r)c. Cổ-nhơn thư(c)ng khuyên nhau :"Tiền Nghĩa vị hậu l(r)i", tức là phải làm nghĩa rồi sau sẽ cầu l(r)i là lẽ như vậy. * LỄ.- Lễ trước duéng để tế tự, sau lan rộng đến nền nếp xử-sự, tiếp-vật mà nhơn-quần Xă-Hội thừa nhận. Ch" Lễ lại đồng-thể với ch" Lư ; cho nên nó phải tùy th(c)i mà biến đổi, càng ngày càng tốt hơn, chớ chẳng khá cố-chấp mà phải sa vào cái hủ lậu. Về phương diện tế tự. Lễ có mục phiêu thứ nhứt là làm cho đàn-tế đư(r)c tôn nghiêm ; mục phiêu thứ nh́ là đào-tạo cho người tâm-lư kính và thành. Có kính th́ mới gi" đư(r)c bản tánh của ḿnh ; có thành th́ mới cảm ứng đư(r)c với Tr(c)i. Đó là Lễ giúp người hàm dư"ng tâm-tánh. Ḷng người lúc nào cũng có t́nh-cảm ; mà t́nh cảm xấu sanh nhiều hơn t́nh-cảm tốt. Lễ dùng để hạn chế t́nh cảm xấu và giúp cho t́nh-cảm tốt chóng thành. Sách Lễ-kư chép rằng :"Ḷng ngư(c)i ta lúc nào cũng có sự ham ăn uống, trai-gái và s(r) cái nạn tử-vong, bần-khổ ; nếu ngư(c)i ta không nghĩ lại th́ Thiên-lư ở trong người (tức Bổn-tánh) sẽ tiêu-diệt hết". Lễ giúp người gi" vẹn phần Thiên-lư ấy. Trên đư(c)ng giao-tế, Lễ phải có Nghi làm h́nh thức . Giả tỉ như chúng ta gặp người Trưởng-thư(r)ng, th́ chúng ta đem ḷng kính, đó thuộc về Lễ. Rồi chúng ta nghiêng mũ cúi chào, tỏ ḷng kính ra ngoài ; đó thuộc về NGhi. Thế nên nói : Nghi tùy Lễ mà chế. Hai ch" "Lễ-Nghi" thiếu một th́ không thành qui-tắc. Giả tỉ như : Chúng ta có kính trong ḷng, mà không nghiêng mũ cúi chào, th́ ḷng cung kính không chỗ nương, để phát biểu. Trái lại, trong ḷng không kính mà bên ngoài làm ra vẽ cúi chào. Nghi không Lễ th́ chỉ là một h́nh thức khô-khan mà thôi. Lễ-Nghi dùng để phân định ngôi thứ : tôn ti, thư(r)ng hạ. Giả tỉ trong đám hội đàm : người lớn cứ sổ-sàng ăn nói, sổ-sàng hành-động ; kẻ nhỏ th́ hỗn-ẩu, không kính nễ người lớn. Thế th́ làm sao mà hiệp nhau đư(r)c ; cho nên nói rằng : thất Lễ th́ loạn. Học Lễ không phải khó khăn, như có ngư(c)i ta lầm tưởng. Bởi v́ Lễ thuận ḷng người mà dấy ; chớ không phải cư"ng-bách. Cổ-nhơn thư(c)ng khuyên nhau : trước học Lễ, rồi sau mới học Văn, tức là học Đạo-lư trước rồi sau sẽ học các khoa khác. Luật dùng để răn ngư(c)i phạm tội. Lễ để ngăn t́nh-cảm xấu, thế mà người ta s(r) Luật hơn s(r) Lễ ; đó là tại Luật có hậu thuẩn là h́nh-phạt. Nói về gi" Lễ th́ khi đi đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng chẳng khá dễ-duôi. Ở thư(c)ng th́ cung, làm việc th́ kỉnh, giao-thiệp th́ hết ḷng. Ba điều ấy, dầu ở chung với kẻ mọi r(r), cũng chẳng khá quên. Ra khỏi cửa th́ kính, như hầu khách quí ; sai khiến kẻ dư(c)i th́ kính như thừa hành lịnh trên ; nhứt cử, nhứt động, đều có Lễ, đó là người lịch sự. Hành-vi, l(c)i nói và tư tưởng, mỗi mỗi đều có trước sau, là ngư(c)i có tiết. Hành-vi, l(c)i nói và tư-tưởng, mỗi mỗi đều thích trung, là người có độ. Tiết-độ là mực thước của người, cũng như nhịp trư(c)ng-canh của âm-nhạc. Lễ là khuôn thước định ra tiết-độ ấy. * TRÍ.- Biết phân biệt điều lành để theo, điều d" để tránh là người Trí. Hoặc giả nói rằng :"Người Trí biết đạo-đức, để hoán-cải điều-ác thành điều-thiện, mỗi ngày càng làm cho ḿnh trở nên người có giá trị thêm hơn. Muốn thành người Trí, chúng ta phải học hành. Vậy học-hành để mở trí ; mở Trí để biết làm ngư(c)i. Ấy vậy nên sự học, trước nhứt phải chánh-tâm và thành-thật làm theo Chơn-lư, mà chúng ta đă học đư(r)c. Học và Hành phải đi đôi mới gọi là biết. Nói tỉ : chúng ta biết th(c) Tr(c)i là một việc rất h"u ích ; nhưng biết th(c) Tr(c)i chưa đủ, thành thử chúng ta phải tế-lễ Đức CHÍ-TÔN hằng ngày, để tập cho ḿnh có ḷng thành kính. Ḷng thành kính tức là Chơn-tâm, nó sẽ giúp cho chúng ta trừ khử Vọng-tâm và cảm thông với Thiên-lư. Th(c) Tr(c)i, Tế Tr(c)i là một phương pháp làm sáng đức sáng của ḿnh. Thầy Tuân-Tử nói :"Chẳng nghe không bằng có nghe ; có nghe không bằng trông thấy ; trông thấy không bằng biết rơ ; biết rơ không bằng làm đư(r)c. Học để biết, biết để làm. Thế th́ cái đức sáng của ḿnh càng ngày càng sáng suốt thêm lên. Sự học có nhiều lối : học với kinh nghiệm và học với trí nghĩ. Ví dụ : Chúng ta chưa biết lửa có tánh nóng. Nay v́ có một duyên cớ ǵ, chúng ta chạm nhằm lửa mà phải phỏng tay. Thế là chúng ta nh(c) bài học kinh nghiệm, để biết lửa có tánh nóng. Đ(c)i người là một cuộc học. Nếu chúng ta rủi bị phiền năo v́ một việc ǵ, th́ chúng ta chẳng khá trách Tr(c)i, chẳng khá trách người, chẳng khá trách sự vật, mà trái lại, phải tự xét ḿnh t́m cho ra cái nguyên nhân nào làm cho chúng ta phải phiền năo. Phải chăng : tại không biết, tại trễ-nải, tại tức giận. Khi đă thấy nguyên nhân tạo ra phiền-năo rồi, chúng ta nên t́m phương giải-quyết, để cho cách xử sự lần sau đư(r)c khá hơn. Trí người là một trư(c)ng hành-động. Khoa-học, ngày nay, nh(c) Trí mà phát minh biết bao nhiêu cơ-khí kỳ xảo. Chúng ta nên dùng Trí của ḿnh, để t́m biết đ(c)i sống của ḿnh : Đại để như nh́n ra Vơ-trụ bao la, biết bao nhiêu Thế-giái vận chuyển không ngừng, lại nh́n đến vạn-vật yên lặng, trang nghiêm, rồi nghĩ đến thân phận người ta ở đ(c)i : Sống như vậy rồi chết ra sao ? Và c̣n biết bao nhiêu nh"ng việc huyền bí trong Vơ-trụ mà chúng ta chưa biết đư(r)c. Vậy chúng ta nên chép nh"ng vấn đề ấy, để rồi suy nghĩ, khám phá sự liên lạc của người với Tr(c)i, người với người, người với vật. Một khi chúng ta khám phá nh"ng lẽ bí-mật của Tạo-vật rồi, ắt chúng ta sẽ giải quyết đư(r)c đ(c)i sống của chúng ta với một cách xứng đáng. Theo lư đương nhiên, đ(c)i sống chẳng phải t́m nơi sự lư nhỏ mọn trong ṿng vật-dục, mà phải vư(r)t ra ngoài, để rồi sống với Đạo, sống với Thư(r)ng-Đế và sống với Chúng-sanh. Mục-đích của người Trí là biết Đạo, thế nên kẻ học phải kiên-tâm, tŕ chí. Cách học phải mở cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cùng, phân biệt cho rơ và hết sức làm theo để thành toàn cái biết của ḿnh. Mỗi ngày xét ḿnh ba lần và bền ḷng làm măi cho đến một ngày kia, chúng ta sẽ có Tâm trọn lành. Trí đă phát khởi, thấu hiểu Chơn-lư của cái thiện-ác và biết giới hạn của t́nh-dục rồi. Lúc bây gi(c), chúng ta ung dung cảm thông với Thiên-lư mà sống với một thái độ thuận-ḥa, b́nh-tĩnh, theo Đạo Tự-nhiên. * TÍN.- Tín là tin. Thủ tín là điều quí trọng của người; nhứt là kẽ tu-hành. L(c)i nói của ḿnh thốt ra phải trọng nó ; nói ra rồi phải nh́n nhận, nếu nói không chắc một lần th́, về sau, mặc dầu chúng ta nói thiệt, người ta cũng không tin. "Nhơn vô Tín bất lập". Người không đặng tín-nhiệm th́ chẳng làm nên đư(r)c. Đối với ḿnh lại phải cần thủ tín nhiều hơn n"a. Chúng tôi xin nhắc lại câu sách Đại học nói rằng :"Sở vị thành kỳ ư giả vô tự khi dă". Nghĩa là : cái chỗ gọi là sửa ư thành thật cốt-yếu ở chỗ ḿnh chẳng tự dối. Đại để câu nầy nói rằng nếu người ta tự dối ḿnhth́ ḿnh không làm nên đư(r)c. Vị dụ : Chúng ta hứa với ḿnh "học cho giỏi". Thế mà rồi ít lâu lại quên mất, không làm đư(r)c như l(c)i hứa ; đó là tại sao ? Tại ḿnh tự dối ḿnh. Mà kẻ tự dối ḿnh tức là dối Lương-tâm ; mà dối Lương-tâm là dối Tr(c)i. Thử hỏi Tr(c)i có nên dối chăng ? Nh"ng kẻ bội ước, bất trung, nói rồi chối, hoặc điên-đảo xảo-ngôn, là kẻ xúc-phạm đến Thần-minh. Kẻ ấy thế nào cũng phải chịu tội. Mất ḷng tín nhiệm của người, lại mất ḷng tự-tín của ḿnh, kẻ ấy thành ra một nhân-vật khả-ố. Nó hăm ḿnh vào nơi khốn nạn. Kẻ học Đạo phải tự ḿnh bó buộc ḿnh : nói thiệt và thủ tín, v́ khoản nầy rất khó dung chế. * Nói tóm lại, Ngũ-thư(c)ng là năm đức thư(c)ng để ngư(c)i ta noi theo mà sửa ḿnh, hầu trở nên người đạo-đức ; trên thuận cùng Đức CHÍ-TÔN, dưới ḥa ḿnh với Nhơn-loại. Ngũ-thư(c)ng dùng sửa người thành đạo-đức, cũng như thước quí, dùng để làm ra h́nh tṛn, thước cũ dùng để làm ra h́nh vuông. Nếu muốn làm h́nh tṛn và h́nh vuông mà chẳng có thước qui, thước cũ, th́ làm sao nên đư(r)c ; cũng như muốn sửa ḿnh ra đạo-đức mà chẳng theo Ngũ-thư(c)ng th́ biết đâu mà học tập. Theo cái thuyết "Thiên địa vạn vật nhứt thể" th́ gi"a chúng ta cùng vạn vật có một giây liên lạc, kết chặt t́nh đồng thể. Đạo nhân dạy chúng ta phải thương yêu và giúp đ" các loài ; hầu cho muôn loài chung hưởng cái hạnh phúc thái b́nh của Tr(c)i dành cho chúng vật. Phương pháp xử thế th́ thiên h́nh vạn trạng, nghĩa lư vô cùng, kể không xiết, nhưng rút lại chỉ do Tâm mà thôi. Mà muốn bảo tồn Tâm chánh, học giả phải gi" năm đức thư(c)ng : Nhân là thương xót ; Nghĩa là lẽ phải ; Lễ là h(r)p lư ; Trí là thông đạt và Tín là tŕ thủ. Ấy vậy nên chúng ta làm việc ǵ dầu lớn, dầu nhỏ, cũng phải hỏi lại Tâm ḿnh, tức vị Thần-minh, ở trong ữ của chúng ta. Như thế, nếu chưa đư(r)c chí-thiện như Thiên-lư ; nhưng không đến nỗi sai xa.
*
PHN GÁI ---
"Tam-tùng - Tứ-đức"
Mặc dầu trai hay gái đều có bổn phận làm người ; đại để như đă nói trong trương trước ; nhưng riêng về Nữ-phái, Cổ-nhơn đă vạch sẵn một con đư(c)ng :"Tam tùng, Tứ đức" mà kẻ Hậu-tấn nên noi theo. Có người nói Thế-kỷ 20, văn minh vật chất đă phổ truyền. Phụ n" từ Tây sang Đông, từ thành thị đến thôn quê, người người đều chen lấn trên đư(c)ng "Canh tân", nếu đem cái thuyết cũ kỹ "Tam tùng, Tứ đức" mà hô hào, thế có phải là đi ngước chiều Tấn-hóa chăng ? Không. Bởi v́ Luân-lư cổ truyền của người Việt Nam vốn ở trong Nho-giáo, mà v́ Thánh-sư của Nho-giáo là Đức Khổng-Phu-Tử có nói rằng :"Luân-lư pháp luật phải tùy th(c)i mà sửa đổi cho thích nghi với tŕnh độ tấn hóa của Nhơn-sanh". Câu sách Trung-dung sau đây đủ chứng minh điều ấy rằng :"Trọng-Ni tổ thuận Nghiêu-Thuấn, hiến chương Văn-vơ, thư(r)ng luật Thiên-th(c)i, hạ tập Thủy-thổ". Nghĩa là đức Trọng-Ni (Khổng-Phu-Tử) thuật lại Đạo Vua Nghiêu, Vua Thuấn, bắt chước Vua Văn, Vua Vơ ; trên theo th(c)i Tr(c)i mà quyền biến ; dưới tùng Thủy-thổ mà an vui. Vậy chúng ta nên lư(r)c lại nh"ng qui-luật cổ-truyền, như cái thuyết "Tam tùng, Tứ đức" rồi chăm chước sửa đổi cho vừa lằn tấn hóa ; nghĩa là chúng ta gi" nh"ng cái "Hay" bỏ nh"ng cái "Dở" để đưa đoàn Em đi đến con đư(c)ng "Mỹ-tục thuần phong". Nghĩ như thế, nên chúng tôi yên trí soạn lại như sau. * TAM TÙNG.- Tam tùng là ǵ ? Tam-tùng chỉ về ngư(c)i Phụ-n" có ba chỗ theo là : Tại gia tùng phụ ; Xuất giá tùng phu ; Phu tử tùng tử ; để làm cho ḿnh trở nên đứa con thảo, ngư(c)i v(r) hiền, bà mẹ tốt. 1.- Tại-gia tùng-phụ.- Nghĩa là khi c̣n thơ ấu, ở với cha mẹ th́ phải tùng cha mẹ. Bổn-phận làm con đối với Cha mẹ th́ phải thảo. Đạo Hiếu không phân biệt trai hay gái, đại khái nói trong nh"ng trương trước. Riêng về phận gái ch" "Tại gia tùng phụ" có ư nghĩa đặc biệt là : Khi c̣n thơ-ấu, ở với Cha mẹ, mặc dầu ḿnh có học thức đến đâu cũng chưa có kinh nghiệm ở đ(c)i, chưa hiểu nhơn t́nh thế-sự, cho nên nh"ng việc quan hệ đến đ(c)i ḿnh th́ nhứt thiết phải tuân l(c)i cha mẹ. Nên biết rằng trong đ(c)i, chẳng ai thương chúng ta bằng cha mẹ ; chẳng ai lo cho chúng ta bằng cha mẹ. Từ xưa đến nay, chưa có ngư(c)i cha mẹ nào làm hại con. Vậy cha mẹ chúng ta cũng như muôn vàn ngư(c)i khác, hằng chăm lo cho con nên ngư(c)i. Chúng ta chẳng v́ lẽ chi mà không tuân l(c)i Ngư(c)i. Thoảng như cha mẹ có dạy điều chi chẳng vừa ư,th́ ḿnh cũng nhỏ nhẹ xin sửa đổi, chớ không nên cải cọ mà thành ra ương-ngạnh. Gần đây mới xuất hiện phong trào "Tự do kết hôn". Vấn đề nầy có thể chắp thuận về nguyên tắc. Bởi v́ v(r) chồng là bạn trăm năm. Đôi bên cần phải tâm đầu ư hiệp, th́ mới to nên hạnh phúc gia đ́nh. Trái lại, nghĩa là kẻ trâu trắng, ngư(c)i trâu đen, th́ cả hai đều phải chịu khổ trọn đ(c)i. Ấy vậy nên trước khi cưới nhau, ngư(c)i Trai và ngư(c)i Gái cần biết qua tâm lư của đôi bên. Chúng tôi nói :"Chấp thuận về nguyên tắc". Nghĩa là phận gái đư(r)c quyền chọn lựa ngư(c)i bạn trăm năm của ḿnh ; nhưng trước khi quyết định, phải ch(c) lịnh cha mẹ. Biết đâu : chúng ta v́ trẻ ḷng non dạ mà không phân biệt trắng đen ; biết đâu chúng ta măi t́m hạnh phúc mà lại sa vào cạm bẫy tai hại. Việc tạo lập gia thất là việc lớn của ngư(c)i Đàn bà. Nói tỉ như chúng ta rủi lạc-lầm lần đầu tiên th́ chúng ta phải chịu vô phước cả một đ(c)i. Đó là chỗ mà phận gái phải dè dặt cho lắm. C̣n kẻ làm cha mẹ, không nên ỷ quyền cha mẹ mà ép con. Ngạn ng" nói :"Ép dầu, ép mở, ai nở ép duyên". Có ngư(c)i gả con mà không giạm hỏi ư con, về sau, thành ra vô t́nh mà hại một đ(c)i của con. Đương môn, đối hộ, là một điều tốt, nhưng nó đứng vào hàng thứ nh́. Duy có điều : chọn dâu, chọn rễ kia, mới thật là trọng yếu. Quyền cha mẹ, nghĩa làm con, đôi bên phải dung ḥa với nhau, để đào tạo hạnh phúc cho con hơn hết. Nếu rủi cha mẹ qua đ(c)i th́ phận gái cũng nên nghe l(c)i ngư(c)i nuôi dư"ng như Cô, Cậu, Chú, Bác, v.v... * 2.- Xuất giá tùng phu.- Khi có chồng rồi, phận gái phải ở với nhà chồng, cả một cuộc đ(c)i mới đó phải thi-hành ; nào là bổn phận đối với cha mẹ chồng,anh em bên chồng, nào là xử sự với kẻ ăn ở trong gia đ́nh và ngư(c)i láng giềng ; mỗi mỗi phải cư xử cho trọn đạo ; nhứt là đối với chồng phải gi" ǵn trinh tiết ; bởi v́ ngư(c)i đàn bà mất trinh th́ mất giá trị (xin xem bài Phu-Thê-Cang). 3.- Phu tử tùng tử.- Rủi chồng chết th́ phải theo con ; khi con thơ ấu th́ một ḷng lo nuôi dư"ng giáo-hóa, c̣n khi con nên ngư(c)i th́ một ḷng sống với con cho tṛn bổn phận của bà mẹ hiền. Sách Nho chép chuyện bà thân sanh của Mạnh-tử chọn xóm ở, để cho con ăn học ; có lần Mạnh-Tử biếng nhác, Bà chặt khung cửi, làm cho con biết s(r) mà lo học. Nh(c) mẹ hiền mà thầy Mạnh-Tử trở nên bậc Á-Thánh. Đoàn Hậu-tấn nên noi theo gương làm cha mẹ đó mà lập thân ḿnh. *
TỨ-ĐỨC ---
Công, Ngôn, Dung, Hạnh
CÔNG.- Nh"ng việc văn chương, cung kiếm, như bậc anh thư th́ chẳng nói chi, ngư(c)i Phụ-n" c̣n có N"-công thư(c)ng thức cần phải thuần-thục, để làm tṛn bổn-phận nội-tr(r), như : may vá, nấu nướng, sắp đặtviệc nhà có thứ tự. Vả chăng, nội tr(r) là bổn phận đàn bà, nếu ngư(c)i phụ-n" không biết nh"ng việc thư(c)ng ngày đó th́ mất giá trị của ḿnh ; cho nên phải siêng năng rèn tập. NGÔN.- Ngôn là l(c)i nói, ngư(c)i bàng quan do l(c)i nói của ḿnh mà đoán ra tâm lư. Tại sao ? Bởi có trong ḷng mới tỏ ra ngoài ; thành thử l(c)i nói năng phải cẩn thận. Không nói lả lơi, hoa nguyệt, không nói xằng, nói bậy ; không ngồi lê đôi mách, không nói dối. Muốn đư(r)c vậy th́ tập cho có thói quen rằng :"Suy nghĩ trước, rồi sau mới nói", tức ngôn đoái hạnh, hạnh đoái ngôn. DUNG.- Dung là dung nhan, diện mạo. Cần phải sạch sẽ, vẽ-vang, đi đứng trang hoàng, h́nh-dung yểu-điệu tự-nhiên, nghĩa là không phải sửa cách đi đứng, v́ có ư sửa là mất tự-nhiên, mà mất tự nhiên th́ không đẹp. HNH.- Hạnh là nết, mà nết lại do Tâm mà ra, cho nên muốn có hạnh, trước phải giồi mài bổn Tâm. Luân-lư dạy rằng phận gái phải hiền lành, ḥa-nhă. Hiền lành th́ ngăn đư(r)c phóng tâm, ḥa-nhă th́ lkhỏi phải hỗn-ẩu, kiêu-căng. Trên đư(c)ng giao-tế ; hoặc đối với ngư(c)i nhà hay ngư(c)i láng giềng, nhứt nhứt phải gi" ư thành thật trước hết. Có thành thật mới đư(r)c ngư(c)i yêu mến tin dùng. Nói rút lại, Tam-tùng, Tứ-đức, nếu ngư(c)i Phụ-n" lấy đó làm kỷ-cương ở đ(c)i th́ ḿnh sẽ đư(r)c danh thơm là : con thảo, v(r) hiền và mẹ tốt. * Tóm luận, thi hành khoản đạo ngư(c)i trên nền tảng Tam-cang, Ngũ-thư(c)ng, Tam-tùng, Tứ-đức, chúng tôi xin tạm một câu sách Đại-học để làm bài kết luận như sau : Xưa kia, người i ta muốn làm sáng cái đức sáng của ḿnh trong Thế-gian, trước hết phải làm tṛn bổn phận đối vối với nước ḿnh (Trị-quốc) ; muốn trị-quốc, trước phải sửa xong việc nhà ḿnh (Tề-gia) ; muốn tề-gia trước tu-thân ḿnh ; muốn tu thân ḿnh trước phải chánh-tâm : muốn chánh-tâm trước phải sửa ư ra thành thật (thành ư) ; muốn thành-ư trước phải khai hóa đến cùng tột cái biết của ḿnh (trí-tri) ; mà trí-tri tại sự cách vật. Hoặc nói đảo lại là : Cách-vật rồi sau mới trí-chí ; tri-chí rồi sau mới ư-thành ; ư-thành rồi sau mới tâm-chánh ; tâm chánh rồi sau mới thân tu, thân-tu rồi sau mới gia-tề ; gia-tề rồi sau mới quốc-trị ; quốc-trị rồi sau thiên-hạ thái-b́nh. Trên đây là bổn chương tŕnh Xă-hội-học mà người Á-Đông đă chăm theo tự ngàn xưa. Chương-tŕnh ấy nhắm vào mục-đích ḥa-b́nh Thế-giái, thức là mỗi người thảo luận với mọi người từ trong gia-đ́nh đến ngoài xă-hội. Mà muốn đi đến mục-đích ấy, trước phải sửa ḿnh. Đạo tu-thân bắt đầu từ cách-vật, trí-tri, đến thành-ư, chánh-tâm. Vả lại, Tâm với Tánh tuy có hai danh-từ, song vốn một, tức là nguồn Thiên-lư Trời phú cho người. Hễ người có Tâm-chánh, th́ tự nhiên phần Thiên-lư sáng tỏ. Như trước kia đă nói Thiên-lư ở trong người phát động là Đạo-nhân, mà Đạo Nhânlà Đạo làm người vậy. Ấy vậy nên người nào gi" trọn năm đức thường là : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đă nói trước kia th́ theo được Đạo Trời và cùng vạn-vật đồng thể. Làm người mặc dầu trai hay gái đều phải biết Đạo Nhân, tức cái phát-động của nguồn Thiên-lư ở trong người, rồi sau sẽ theo đó mà làm bổn phận ḿnh. Được như thế th́ trên không phạm luật trời, dưới lại ḥa cùng mọi người. Vậy há chẳng phải an vui lắm sao ! |